Tổng quát nội dung có trong bài viết
Tham khảo thêm: Phân tích tác phẩm Vợ chồng A phủ
Dàn ý vợ chồng a phủ phân tích chi tiết
1. Mở bài vợ chồng a phủ
Giới thiệu khái quát về tác giả Tô Hoài và tác phẩmVợ chồng A Phủ.
- Tô Hoài là một nhà văn có lối trần thuật hóm hỉnh, sở trường của ông đó là về thể loại truyện phong tục và hồi kí.
- Tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” được in trong tập Truyện Tây Bắc, là sự phản ánh những nỗi khổ của người dân đồng bào Tây Bắc dưới ách thống trị của thực dân Pháp, đồng thời ca ngợi vẻ đẹp con người nơi đây.
2. Thân bài vợ chồng a phủ
2.1. Phân tích nhân vật mị trong vợ chồng a phủ
2.1.1. Trước khi trở thành con dâu để gạt nợ cho nhà thống lí Pá Tra
Mị là một cô gái người dân tộc Mông trẻ trung, hồn nhiên và có tài thổi sáo. Mị đã từng yêu, luôn khao khát được đi theo tiếng gọi của tình yêu. Có lòng hiếu thảo, chăm chỉ và ý thức được giá trị cuộc sống tự do nên đã sẵn sàng làm nương ngô trả nợ thay cho bố.
2.1.2. Khi trở thành con dâu để gạt nợ cho nhà thống lí Pá Tra
- Nguyên nhân: là do món nợ truyền kiếp từ thời cha mẹ của Mị, tục cướp vợ của người Mông đem về để cúng trình ma. Người lao động nơi đây bị cả cường quyền và thần quyền buộc chặt.
- Mị đã phải chịu những sự đày đọa về thể xác: Mị phải làm việc không kể ngày đêm, “không bằng con trâu con ngựa” ; bị đánh đập một cách dã man: bị trói, bị đạp vào mặt, …
- Mị đã dần trở lên chai sạn với nỗi đau: trở thành một cô gái lúc nào cũng “mặt buồn rười rượi”, không còn quan tâm đến thời gian (hình ảnh ô cửa sổ), lúc nào cũng sống lầm lũi “như con rùa nuôi trong xó cửa”, và rồi “ở lâu trong cái khổ Mị quen rồi”.
- Sức sống của Mị như đã trỗi dậy trong đêm hội mùa xuân ở Hồng Ngài:
- Âm thanh của cuộc sống bên ngoài (tiếng trẻ con chơi quay hay tiếng sáo gọi bạn tình ..) đã đánh thức những kỉ niệm trong quá khứ của Mị.
- Mị như ý thức được sự tồn tại của bản thân “thấy phơi phới trở lại”, “Mị còn trẻ lắm …”, với niềm khát khao tự do, thắp sáng cả căn phòng tối, muốn “đi chơi tết” để chấm dứt sự tù đày.
- Khi bị A Sử trói lại, lòng Mị vẫn lửng lơ theo tiếng sáo, theo tiếng hát của tình yêu đến những đám chơi. Lúc vùng dậy cô lại chợt tỉnh trở về với hiện thực.
- Nhận xét: trong Mị luôn tiềm tàng một sức sống mãnh liệt, sức sống ấy luôn âm ỉ trong lòng của người con gái Tây Bắc và chỉ chờ có cơ hội để có thể bùng lên mạnh mẽ.
- Khi A Phủ làm mất bò và bị phạt trói đứng:
- Ban đầu Mị dửng dưng, không quan tâm bởi sau đêm tình mùa xuân, cô đã trở lại là cái xác không hồn.
- Khi thấynhững giọt nước mắt của A Phủ khiến Mị đồng cảm, rồi chợt nhớ lại hoàn cảnh của mình trong quá khứ, Mị lại biết thương mình và thương cho cái kiếp người bị đày đọa “cơ chừng này chỉ đêm mai người kia sẽ chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết”.
- Bất bình trước những tội ác của bọn thống lí, Mị đã cắt dây đay cởi trói cho A Phủ. Mị cũng sợ cái chết, sợ nhà thống lí, cô đã chạy theo A Phủ để tìm lối thoát.
- Nhận xét: Mị là người con gái lặng lẽ nhưng rất mạnh mẽ, hành động của Mị như đã đạp đổ cường quyền, thần quyền của bè lũ thống trị miền núi.
2.2. Nhân vật A Phủ trong tác phẩm
- Số phận: A Phủ mồ côi cha mẹ, không còn người thân nào, lớn lên đi làm thuê và sau đó trở thành người ở gạt nợ cho nhà thống lí Pá Tra.
- Khi trở thành người ở để gạt nợ cho nhà thống lí Pá Tra.
- Nguyên nhân: A Phủ đã đánh con quan và bị thua cuộc trong vụ xử kiện quái gở.
- A Phủ chịu những sự đày đọa về mặt thể chất: phải làm những công việc nặng nề và nguy hiểm như : “đốt rừng, cày nương, săn bò tót, …”, anh còn không có giá trị bằng một con bò, vì làm mất bò mà bị trói đứng đến chết.
- Tích cách của A Phủ:
- Lúc nhỏ là người mạnh mẽ và gan bướng: khi bị bán xuống cánh đồng thấp anh lại trốn lên núi cao.
- Lớn lên là một chàng trai khỏe mạnh, tháo vát, chăm chỉ, biết làm mọi công việc. Là người biết bất bình trước những sự bất công (đánh A Sử), kháo khát sự tự do (nén đau để vùng chạy khi được Mị cắt dây trói).
- Nhận xét: A Phủ được đánh giá từ bên ngoài với những lời nói ngắn gọn, hành động dữ dội mạnh mẽ.
3. Kết bài vợ chồng a phủ hay
- Nghệ thuật: sử dụng ngôn ngữ và cách nói đậm chất miền núi, cùng với lối trần thuật linh hoạt và sự dịch chuyển điểm nhìn trần thuật, miêu tả thành công tâm lí của nhân vật và hình ảnh thiên nhiên.
- Tác phẩm chứa đựng nhiều giá trị nhân đạo sâu sắc: sự cảm thông với số phận đầy đau khổ của những con người phải chịu áp bức, tố cáo lên án bọn thống trị miền núi, bọn thực dân và ca ngợi vẻ đẹp, sức sống tiềm tàng mãnh liệt trong mỗi con người Tây Bắc.
Sơ đồ tư duy Vợ chồng A Phủ của nhà văn Tô Hoài
Một số bài văn mẫu phân tích tác phẩm Vọ chồng A Phủ hay nhất
Soạn bài phân tích vợ chồng a phủ
(Bài văn mẫu phân tích tác phẩm số 1)
Tô Hoài là một nhà văn tiêu biểu của nền văn học Việt Nam hiện đại, ông đã để lại rất nhiều tác phẩm có giá trị như: Dế Mèn phiêu lưu ký, Quê nghèo, Giăng Thề…Tập truyện Tây Bắc cũng là một trong những thành tựu, một tác phẩm vô cùng xuất sắc, một lần nữa đã khẳng định tên tuổi của ông trên văn đàn. Truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” được trích trong tập “Truyện Tây Bắc” đã để lại cho người đọc rất nhiều ấn tượng sâu sắc với giá trị nhân văn sâu sắc.
“Vợ chồng A Phủ” là một truyện ngắn vô cùng đặc sắc có sức lôi cuốn, hấp dẫn thực sự bởi giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc mà tác phẩm đem đến. Nhà văn đã dựng lại quãng đời đầy đau khổ, tối tăm của người dân miền núi thông qua số phận của Mị và A Phủ và nói lên quá trình đến với cách mạng của họ.
Tác phẩm kể về cuộc đời của một đôi vợ chồng trẻ người Mông là Mị và A Phủ. Mị bị nhà thống lí Pá Tra bắt về làm con dâu trừ nợ. Còn A Phủ vì dám đánh A Sử, con trai của thống lí nên bị phạt vạ làm đầy tớ không công. Cùng cảnh ngộ đau khổ, bi thương Mị đã cứu A Phủ. Hai người đã trốn khỏi nhà Pá Tra và tìm đến tận Phiềng Sa, sau đó thành vợ thành chồng, cùng nhau xây dựng cuộc đời mới. Sau khi được cán bộ cách mạng giác ngộ, Mị và A Phủ đã tham gia lực lượng du kích bảo vệ khu giải phóng.
Trong thời kỳ thực dân phong kiến, bọn lang đạo chúa đất ở vùng miền núi mặc sức làm mưa làm gió. Bọn chúng nắm trong tay mọi quyền lực, còn tự cho rằng mình có quyển sinh, quyền sát nên coi tính mạng người dân nơi đây như cỏ rác. Cha con nhà thống lí Pá Tra với tính cách bạo tàn, ngang ngược và lối sống phè phỡn trên mồ hôi nước mắt của những người nghèo, tiêu biểu cho giai cấp thống trị ở miền núi. Cũng như những tên chúa đất khác, thống lí Pá Tra đã dùng mọi thủ đoạn giơ bẩn, hiểm độc trong việc áp bức, bóc lột dân chúng và đẩy họ vào cảnh bần cùng để rồi biến họ thành nô lệ cho hắn. Mị và A Phủ chính là hai trong nhiều nạn nhân khác của hắn.
Giá trị hiện thực và nhân đạo trong tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” được thể hiện rõ qua số phận của hai nhân vật Mị và A Phủ.
Mị là một cô gái xinh đẹp, khỏe mạnh và được nhiều trai bản yêu mến. Cuộc sống tốt đẹp đang chờ cô phía trước, nhưng chỉ vì món nợ của cha mẹ cô đã vay nhà thống lí từ ngày cưới cho đến nay vẫn chưa trả được, nên Mị đã bị bắt về làm con dâu để trừ nợ cho nhà thống lí Pá Tra. Hắn coi Mị như một thứ đồ vật, một món hàng để thay thế cho số tiền mà cha mẹ cô còn đang nợ hắn.
Mở đầu tác phẩm, nhà văn đã miêu tả hình ảnh của một người con gái đang ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù làm bất cứ việc gì, quay sợi, dệt vải, thái cỏ ngựa, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng luôn cúi mặt, với vẻ mặt buồn rười rượi. Một cô gái cô đơn, đơn độc, âm thầm và gần như lẫn vào giữa các sự vật vô tri: cái quay sợi, tảng đả, tàu ngựa… trong cái khung cảnh đông đúc, tấp nập của nhà quan thống lí. Là con dâu trong một gia đình quyền thế có nhiều nương, nhiều thuốc phiện, nhiều bạc nhất làng, vậy tại sao lúc nào cô gái ấy cũng buồn như vậy? Tác giả đã tạo ra một tình huống có vấn đề để dẫn dắt người đọc cùng đi tìm hiểu số phận của nhân vật chính trong tác phẩm.
Trước hết, nhà văn Tô Hoài đã kể về cảnh ngộ éo le của gia đình Mị, về món nợ truyền kiếp mà khiến Mị bị bắt về làm con dâu gạt nợ cho nhà thống lí Pá Tra. Mang tiếng là con dâu nhà quan nhưng thực chất Mị lại là con nợ, là đày tớ, là nô lệ. Cô đã bị cúng để “trình ma” của nhà thống lí nên không thể chạy đâu cho thoát dược và sẽ phải sống khốn khổ cho đến tàn đời. Người con dâu gạt nợ ấy đã bị đày đọa bởi rất nhiều những công việc lao động khổ sai hằng ngày, nhưng đáng sợ hơn cả đó là sự ràng buộc vĩnh viễn về tinh thần, điều đó khiến cô cảm thấy mình còn sống mà như đã chết.
Mị đã linh cảm, đã sớm biết về số phận bất hạnh của mình. Lúc đầu, cô đã tự tin cho rằng mình có thể trả hết được món nợ của gia đình. Cô van xin cha mình: “Con nay đã biết cuốc nương làm ngô, con phải làm nương ngô giả nợ thay cho bố. Bố đừng bán con cho nhà giàu”. Nhưng sự thông minh và lòng can đảm của cô – một cô gái mới lớn không thể chống lại được mưu mô thâm độc của cha con tên thống lí. Mị như đã bị tròng hai cái thòng lọng vô hình vào cổ đó là làm con nợ và làm con dâu của tên thống lí Pá Tra tham lam, độc ác.
Phải sống chung với A Sử, kẻ mà cô vô cùng căm ghét và oán hận là nỗi khổ sở, đau đớn tột cùng của Mị. Suốt mấy tháng trời ròng rã, đêm nào Mị cũng khóc. Mị cũng đã từng định ăn lá ngón để tự tử. Trước khi chết, cô đã về để lạy cha, nhưng lời kêu van thống thiết của người cha già: “Mầy về chào lạy tao để mày đi chết đấy à? Mày chết nhưng nợ tao vẫn còn, quan lại bắt trả nợ. Mày chết rồi không lấy ai làm nương ngô, trả được nợ, tao thì ốm yếu quá rồi. Không được con ơi!” khiến cho Mị phải nuốt nỗi cay đắng, tủi nhục vào lòng, cuối cùng đành quay trở lại nhà thống lí.
Quãng đời Mị sống với cha con tên thống lí kia là chuỗi ngày vất vả và đau khổ. Kẻ ác đã cướp mất đi tuổi thanh xuân của Mị, biến một cô gái xinh đẹp, hồn nhiên, tươi trẻ thành người đàn bà héo úa, lúc nào cũng cúi gằm với vẻ mặt buồn rười rượi… Mị đã sống âm thầm lùi lũi như một con rùa nuôi trong xó cửa.
Cuộc sống của Mị ngập chìm trong nỗi đau khổ triền miên. Không có ai để cô chia sẻ tâm tình, cô chỉ còn biết làm bạn với ngọn lửa trong những đêm đông dài và buồn. Tâm hồn Mị trở lên lạnh lẽo, trống vắng, nếu như không có bếp lửa sưởi ấm kia thì Mị cũng đến chết héo… Ngọn lửa là người bạn duy nhất của cô, giúp cô xua bớt đi phần nào bóng tối u ám đang vây phủ lấy cuộc đời cô.
Âm thầm, câm lặng như một cái bóng, là cách sống mà Mị đã lựa chọn, cho dù nó trái ngược hoàn toàn với bản tính vui tươi, sôi nổi, yêu đời của cô gái một thời xinh đẹp và tài hoa. Bây giờ, Mị đã không còn nghĩ đến chuyện chết nữa vì cô đã quá quen với cái khổ rồi và cho rằng mình còn sống nhưng tâm hồn như đã chết bởi cuộc sống chẳng còn nghĩa lí gì với cô nữa. Đời Mị cứ thế mà lặng lẽ trôi. Cái ác của bọn thống trị đã giết chết cái phần tốt đẹp trong con người Mị. Mị bị chúng đày đọa đến mức tinh thần phản kháng cũng đã dần dần tê liệt. Tiếng thở dài thê lương của cô thể hiện thái độ buông xuôi phó mặc cho số phận: “Bây giờ thì Mị tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa, là con ngựa phải đổi ở cái tàu ngựa nhà này đến ở cái tàu ngựa nhà khác, ngựa chỉ biết việc ăn cỏ, biết đi làm mà thôi”. Nhưng con trâu, con ngựa nhà giàu đêm cũng còn được nghĩ, còn cô thì không lúc nào ngớt việc.
Bị biến thành một thứ công cụ lao động, đây là nỗi cực nhục mà Mị phải chấp nhận và chịu đựng. Nhưng sự ê chề, đau khổ của kiếp sống nô lệ chưa chỉ dừng lại ở đó, Mị còn phải chịu sự đày đọa kéo dài về tinh thần. Cuộc đời của Mị ngột ngạt, tối tăm chẳng khác gì hình ảnh: … “Ở cái buồng Mị nằm, kín mít, có một chiếc cửa sổ một lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng”.
Tô Hoài không đơn thuần chỉ phản ánh bi kịch mà còn đi sâu vào miêu tả và thể hiện sức sống tiềm tàng mạnh mẽ dẫn tới hành động phản kháng quyết liệt và táo bạo của Mị. Tâm trạng của Mị trong đêm xuân trở lên xốn xang, bồi hồi khi nghe tiếng sáo gọi bạn tình thiết tha, khi khát vọng được yêu và được sống bừng dậy mãnh liệt trong lòng.
Sự hồi sinh trở lại của nhân vật Mị được tác giả miêu tả một cách sâu sắc và tinh tế, phù hợp với tính cách của người con gái ấy. Những yếu tố bên ngoài đã tác động vào tâm lí của nhân vật như “khung cảnh mùa xuân”, “tiếng sáo gọi bạn tình”, “bữa rượu cúng ma đón năm mới”… dường như đã thức tỉnh tất cả cảm xúc của Mị: căm ghét sự bất công, tàn bạo và luôn khao khát một cuộc sống tự do, hạnh phúc.
Trong đêm xuân ấy, những tiếng khèn, tiếng sáo, tiếng reo hò náo nức của đám trai gái và lũ trẻ con tụ tập ở sân chơi đầu làng đã vẳng lại: “Tai Mị văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng”. Cái không khí nồng nàn, ấm ấp của mùa xuân như được tăng thêm bội phần bởi bữa rượu ngày Tết ở nhà thống lí cùng với tiếng chiêng đánh ầm ĩ và đám người nhảy đồng, người hát…”Ngày Tết, Mị cũng uống rượu”. Mị đã lén lấy hũ rượu, cứ uống ừng ực từng bát. Rồi say… Mị như đang sống trong một trạng thái khác thường. Men rượu đã làm cho Mị lâng lâng say, nhưng tâm hồn của cô thì từ từ thức tỉnh sau bao nhiêu tháng ngày câm lặng, mụ mị vì sự đọa đày kia. Cái cách uống rượu ực từng bát khiến cho người đọc nghĩ như thể Mị đang cố uống cho cạn những đắng cay của phần đời mà Mị đã trải qua và uống sự khao khát của phần đời chưa tới. Men rượu nồng và những âm thanh náo nhiệt ngày Tết đã làm Mị vượt ra khỏi cái tâm trạng thờ ơ, nguội lạnh bấy lâu nay. Dấu hiệu tích cực đầu tiên đó là Mị nhớ lại những kỉ niệm tươi đẹp của thời con gái, với những bữa rượu bên bếp lửa ấm áp cùng với tiếng sáo dặt dìu, du dương của bao nhiêu trai làng từng ngày đêm đi theo Mị…
Nhớ lại kỷ niệm trong quá khứ có nghĩa là Mị đã thoát ra khỏi thực trạng sống mà như đã chết. Niềm vui đã trở lại với cô: “Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm Tết ngày trước. Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi”. Sức sống bấy lâu nay bị đè nén giờ đây đã trỗi dậy mạnh mẽ và không gì có thể ngăn nổi.
Xuất hiện đầu tiên trong tâm trí Mị là một ý nghĩ lạ lùng nhưng lại rất chân thật: “Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay, chứ không buồn nhớ lại nữa...” Nghịch lí trên đã cho thấy khi niềm khao khát sống được khơi lên thì nó sẽ trở thành một mãnh lực xung đột gay gắt với những trạng thái vô nghĩa của thực tại. Cái chết lúc này mang ý nghĩ là biểu hiện của sự phản kháng thực tại, chứng tỏ rằng Mị đã ý thức sâu sắc về tình cảnh đầy tủi nhục và đau đớn của mình.
Trong khi đó, tiếng sáo gọi bạn tình ngoài kia cứ thôi thúc, mời gợi. Tiếng sáo chính là biểu tượng của sự sống, của tình yêu, của sự tự do mà bấy lâu nay dường như Mị đã cố quên đi, nay nó đang trở lại. Tiếng sáo được miêu tả song hành cùng với diễn biến tâm trạng của nhân vật Mị, nó chính là ngọn gió thổi bùng lên những đốm lửa vẫn đang âm ỉ cháy trong lòng một cô gái luôn khao khát tình yêu. Tiếng sáo đầy ám ảnh ấy như đã nhập vào thế giới tâm hồn Mị. Giờ đây, trong đầu Mị chỉ còn tiếng sáo đang rập rờn văng vẳng.
Sức sống mãnh liệt trỗi dậy trong con người Mị như những đợt sóng đang ào ạt ùa tới, đợt sau mạnh mẽ hơn đợt trước và nó đã biến thành hành động: “Mị đến góc nhà, lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng”. Đây có thể được coi là một hành động có ý nghĩa thức tỉnh: Mị đã tự thắp lên một ngọn đèn để soi rọi vào cuộc sống đầy tối tăm của mình để tìm ra lối thoát. Con người đích thực trong Mị như đã sống lại và hòa lẫn với con người của thực tại, khiến tâm trạng cô trở lên chập chờn, bất định. Mị vừa sống với thực tại lại vừa sống với quá khứ. Hành động này thúc đẩy những hành động khác tiếp theo như một phản ứng dây chuyền.
Dường như đã không còn đếm xỉa gì đến những ràng buộc khắt khe của cường quyền, thần quyền và những xiềng xích tàn bạo của nhà thống lí Pá Tra nữa, Mị hành động như một con người hoàn toàn tự do theo suy nghĩ, cảm xúc của mình. “Cô quấn lại tóc, lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách, sửa soạn đi chơi Tết”.
Nhưng rồi giữa lúc khát vọng sống của Mị trỗi dậy mãnh liệt nhất thì cũng là lúc mà nó bị dập vùi phũ phàng nhất: “A Sử bước lại, nắm Mị, lấy thắt lưng trói hai tay Mị. Nó xách cả một thúng sợi đay ra trói đứng Mị vào cột nhà. Tóc Mị xõa xuống. A Sử quấn luôn tóc lên cột, làm cho Mị không cúi, không nghiêng được đầu nữa. Trói xong vợ, A Sử thắt nốt cái thắt lưng xanh ra ngoài áo rồi A Sử tắt đèn, đi ra, khép cửa buồng lại”. Trong từng động tác của A Sử, người đọc như thấy được sự tàn ác đến thản nhiên, lạnh lùng của một kẻ đã mất hết nhân tính.
Suốt cả đêm, Mị bị trói đứng vào cột. Cô đã sống trong sự giằng xé mãnh liệt giữa niềm khao khát hạnh phúc cháy bỏng và thực tại đầy đau khổ, tủi nhục. Lúc mới bị trói, Mị vẫn còn thả hồn theo tiếng sáo và những đám chơi Tết bên ngoài kia: “…Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi”. Mị hầu như quên rằng là mình đang bị trói, quên đi những sợi dây trói thít vào da thịt đến đau nhức. Trong giây phút khát vọng sống trong lòng thôi thúc mãnh liệt, Mị đã vùng bước đi, nhưng Mị không thể nào thoát ra được. Sự đối lập giữa ước mơ bay bổng và thực tại phũ phàng đã hiện ra trong hai âm thanh trái ngược nhau đó là: tiếng sáo gọi bạn tình âm vang tha thiết và tiếng chân ngựa đạp vào vách khô khốc: “Mị không nghe tiếng sáo nữa”. Giờ đây chỉ còn nghe tiếng chân ngựa đạp vào vách. Ngựa vẫn đứng yên đó, gãi chân, nhai cỏ. Mị thổn thức nghĩ mình còn không bằng một con ngựa.
Thực tại đen tối ấy đã lấn át, đã bóp nghẹt những ước mơ, khát vọng tươi sáng. Nhưng nhà văn đã không để cho nhân vật của mình tuyệt vọng. Điều kì diệu là dù trong hoàn cảnh cùng cực, khốn khổ nhất thì mọi thế lực của tội ác cũng khôngthể hủy diệt được sức sống của con người. Lay lắt, đói khổ, nhục nhã nhưng Mị vẫn sống âm thầm, tiềm tàng và mãnh liệt. Trong sâu thẳm tâm hồn của cô vẫn âm ỉ và le lói một ngọn lửa yêu đời. Phản ứng tự phát ban đầu tuy chưa thể giải phóng được cuộc đời Mị nhưng những giây phút trỗi dậy ấy có ý nghĩa thức tỉnh. Giống như đốm lửa nhỏ âm ỉ trong đám tro tàn, rồi có ngày sẽ bùng cháy dữ dội.
Và ngày ấy cũng đã đến với Mị. Trước cảnh một con người với khí phách ngang tàn mạnh mẽ như A Phủ mà phải bị đánh, bị trói và lặng lẽ khóc thương cho thân phận đầy tủi nhục của mình, Mị chợt nhớ lại cái đêm năm trước A Sử cũng trói Mị, Mị cũng phải trói đứng thế kia. Nhiều lần Mị khóc, nước mắt đã chảy xuống miệng, xuống cổ, không lau đi được. “Trời ơi, nó bắt trói đứng người ta đến chết, nó bắt mình chết cũng thôi, nó bắt trói đến chết người đàn bà ngày trước cũng ở cái nhà này. Chúng nó thật độc ác. Cỡ chừng này chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết. Ta là thân đàn bà, nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi… Người kia việc gì mà phải chết thế”… Mị đã không cầm lòng được, Mị đã động lòng thương người, thương thân. Mị nhớ đến những nỗi khổ sở, hãi hùng mà mình đã phải chịu đựng, phải trải qua suốt mấy năm qua. Nước mắt đau khổ của A Phủ như khơi dậy nỗi đau lắng chìm trong lòng của Mị. Cảm thương cho số phận của A Phủ và căm thù cha con tên thống lí độc ác kia, Mị quên cả sợ hãi nên đã có một hành động táo bạo đầy bất ngờ là cắt dây trói để cứu A Phủ.
Hành động đó tuy bộc phát nhưng nó hoàn toàn không phải là sự ngẫu nhiên. Mị đã từng hứa sẽ gắng làm nương, làm rẫy để trả nợ thay bố, đã cắn răng chịu bao khổ nhục làm con dâu trừ nợ, cũng đã từng định tìm đến cái chết để giải thoát, thì hà cớ gì Mị lại không dám chết để cứu một người vô tội cùng cảnh ngộ như mình?
Mị cắt dây trói để cứu A Phủ và cũng đột ngột quyết định chạy theo A Phủ rồi trốn khỏi Hồng Ngài. Hành động ấy đã nói lên rằng khi khát vọng sống tiềm tàng trong con người bừng dậy, nó sẽ như một ngọn lửa, một ngọn lửa dữ dội không thể dập tắt. Nó sẽ biến thành thái độ phản kháng gay gắt giai cấp thống trị. Những con người bị áp bức cùng cực sẽ vùng lên đối đầu với bạo lực, với cường quyền để tự giải phóng thoát khỏi thân phận nô lệ.
Đây là kết quả tất yếu của cả một quá trình bị dồn nén, bị áp bức về tinh thần, bị đọa đày về thể xác và bây giờ đã đến lúc phải chấm dứt. Mị cắt dây trói cứu A Phủ cũng chính là tự cắt đứt sợi dây vô hình đã trói buộc cô vào quãng đời tủi nhục. Một hành động bất ngờ và quyết liệt hơn đã xảy ra ngay sau đó. Mị cũng đã thoáng nghĩ đến việc có thể chết thay cho A Phủ, nhưng khi thấy A Phủ vừa chạy đi thì lập tức Mị cũng chạy theo đuổi kịp A Phủ và thốt lên: “A Phủ cho tôi đi … Ở đây thì chết mất”. Mị đã cứu được A Phủ thì tại sao cô lại không tự cứu lấy mình? Tô Hoài đã miêu tả rất đúng những chuyển biến mau lẹ, tự nhiên và rất logic của tâm trạng nhân vật trong tình huống gay cấn giữa sự sống và cái chết.
Hai con người có cùng cảnh ngộ đã lẳng lặng đỡ nhau lao chạy xuống dốc núi, bỏ đi thật xa cái địa ngục đã giam cầm và đày đọa họ suốt mấy năm trời. Từ trong cái chết, họ đã vùng dậy mạnh mẽ để tìm lẽ sống, làm lại cuộc đời.
Cũng như Mị, nhân vật A Phủ có một số phận đặc biệt. Từ nhỏ anh đã mồ côi cha mẹ và cũng không còn ai thân thích trên đời. A Phủ đã từng bị người ta bắt cóc đem xuống núi bán để đổi lấy thóc của người Thái. Tuy mới có mười tuổi nhưng A Phủ lại không thích ở dưới cánh đồng thấp, anh đã cố tìm cách trốn thoát rồi lưu lạc tới Hồng Ngài. Lớn lên giữa núi rừng, A Phủ đã trở thành một chàng trai khỏe mạnh, cường tráng, chạy nhanh như ngựa, anh biết đúc lưỡi cày, biết đục cuốc, lại còn cày giỏi và đi săn bò tót cũng rất bạo. Con gái trong làng rất nhiều cô mê anh: “Đứa nào được A Phủ cũng bằng được con trâu tốt trong nhà, chẳng mấy lúc mà giàu”. Người ta chỉ ao ước đùa thế thôi chứ nhà A Phủ rất nghèo, không có cha mẹ lại không có ruộng nương, tiền bạc, chỉ đi làm thuê làm mướn kiếm sống qua ngày. Tục lệ cưới xin ở đây vô cùng tốn kém nên A Phủ không thể nào lấy nổi vợ.
Cuộc sống hoang dã cùng hoàn cảnh éo le, cuộc sống cực nhọc, vất vả đã hun đúc A Phủ lớn lên trở thành một chàng trai có tính cách vô cùng mạnh mẽ, táo bạo, can đảm và nghĩa khí. A Phủ không sợ bọn con quan mà đã thẳng tay trừng trị khi bọn chúng quấy phá cuộc vui xuân của bạn bè mình. A Phủ đã nắm lấy cái vòng cổ bằng bạc có tua chỉ xanh đỏ trên cổ của A sử ( đó là dấu hiệu con cái nhà quan) để kéo dập đầu nó xuống và xé áo nó ra mà đánh cho hả giận.
Nhưng rồi A Phủ đã phải trả giá rất đắt cho những hành động táo tợn của mình. Trận đánh liều lĩnh, hào hứng ấy nó lại là sự mở đầu cho một chặng đường khổ sở tột cùng trong đời của A Phủ. Anh đã bị nhà thống lí Pá Tra bắt, đánh đập và phạt vạ. Người đọc không thể quên được cái đoạn văn tả cảnh phạt vạ với những hình ảnh, chi tiết rất đắt giá: cái động tác vuốt ngược cái đầu trọc, kéo đuôi tóc dài về đằng trước rồi lè nhè gọi của tên Pá Tra; cái dáng quỳ bất động như đã hóa đá của A Phủ; cái cách hành hạ A Phủ vừa dã man vừa lộn xộn của bọn tay sai, kẻ thì đánh, kẻ thì quỳ lạy, kể lể, chửi bới… rồi đến lời kết án hết sức vô lí và kì cục của tên thống lí… Sự am hiểu những tập quán lạ lùng của vùng cao là chất liệu vô cùng quý giá giúp Tô Hoài tạo dựng lên những hình ảnh của cảnh phạt vạ có một không hai trong văn học hiện đại.
Tô Hoài đã tỏ ra rất sắc sảo trong việc miêu tả con người và cuộc sống ở vùng cao. Cha con tên thống lí cùng bè lũ tay sai chính là hiện thân của giai cấp thống trị tàn ác, vô nhân đạo. Bọn, quan làng, thống quản… đã lợi dụng chuyện A Phủ đánh A Sử để kéo đến nhà của thống lí xử kiện và ăn cỗ suốt từ trưa cho đến hết đêm. Cả mấy chục người hút thuốc phiện rào rào. Rồi cứ mỗi đợt chúng hút xong thì A Phủ lại phải quỳ ra giữa nhà để cho cái lũ tay sai của tên thống lí xô đến đánh: “Cứ như thế, suốt chiều, suốt đêm, càng hút, càng tỉnh, càng đánh, càng chửi, càng hút…”
Trong đoạn văn tả cảnh phạt vạ của nhà thống lí thì chi tiết cuối cùng là chi tiết để lại ấn tượng sâu sắc nhất: “Đến lúc không phải quỳ, phải đánh nữa, A Phủ được đứng lên, chân đau bước tập tễnh nhưng phải tự tay cầm dao làm thịt lợn để hầu hạ chính những kẻ đã đánh đập mình, biến mình từ nay thành nô lệ cho nhà thống lí.”
Cho dù phải sống với thân phận là một kẻ đầy tớ để trừ nợ trong nhà thống lí, nhưng A Phủ vẫn là một chàng trai của sự tự do. Quanh năm, A Phủ phải bôn ba rong ruổi ngoài gò ngoài rừng, làm phăng phăng tất cả mọi việc. Một hôm, vì mải bẫy nhím mà để hổ bắt mất một con bò, A Phủ đã điềm nhiên vác nửa con bò bị hổ ăn dở về và bảo Pá Tra cho mượn súng để đi bắn hổ, coi đó là một chuyện rất dễ dàng. A Phủ không sợ bất cứ một ai, con hổ hay thống lí Pá Tra cũng vậy. Là một người mạnh mẽ và gan góc, A Phủ còn không sợ cả cái chết…
Tô Hoài phát hiện ra hai nét tính cách hoàn toàn đối lập nhau trong con người của A Phủ: một A Phủ đầy can đảm, bất khuất và một A Phủ cam chịu số phận làm tôi tớ. A Phủ này là biểu trưng cho những phẩm chất tốt đẹp của con người, còn A Phủ kia thì lại biểu trưng cho sự nhục nhã. Hai mặt đối lập ấy song song cùng tồn tại. Đó cũng chính là nguồn gốc của sự vận động và phát triển trong hình tượng của A Phủ.
Chạy trốn và thoát khỏi Hồng Ngài, thoát khỏi ách áp bức, bóc lột của thống lí Pá Tra, Mị và A Phủ lại gặp phải một kẻ thù khác không kém phần nguy hiểm đó là giặc Pháp. Chúng là lũ cướp nhà, cướp nước đồng thời cướp cả cái quyền tự do được sống làm người. Chúng cũng chẳng khác gì cái bọn cường hào, ác bá miền núi.
Giặc Pháp tràn lên núi cao, đốt nhà, cướp của, giết người. A Phủ đã bị chúng cướp mất đôi lợn, bị đánh rồi bị bắt đi phu khiêng đá xây đồn… A Phủ căm thù bọn giặc Pháp vì anh nhận thức được rằng mình là người của sự tự do; của cải bị chúng cướp đi chính là mổ hôi, là nước mắt của mình – phải nhớ để mà trả thù.
Sống ở Phiềng Sa, hai vợ chồng A Phủ mới thực sự được làm người theo đúng nghĩa. Họ đã được cán bộ ở A Châu giáo ngộ cách mạng. Từ một chàng trai nô lệ, nghèo khổ, A Phủ nay đã trở thành một chàng du kích dũng cảm, tự tin và thực sự trở thành chỗ dựa tinh thần vững chắc của Mị. Sống ở bên A Phủ, Mị đã dần dần hết lo sợ, cô vững tin hơn vào cuộc sống mới, vào kháng chiến.
Giá trị hiện thực của tác phẩm ngoài việc tái hiện lên đoạn đời đầy khổ ải của những người nô lệ, nó còn nói đến một sự thật xót xa: người dân khi bị áp bức, đè nén quá lâu, họ sẽ bị tê liệt tinh thần phản kháng và sẽ bị đầu độc bởi tâm lí nô lệ. Những sự bạo lực của bọn chúa đất cấu kết với thần quyền cùng sự mê tín dị đoan và với bọn thực dân Pháp ở trong giai đoạn trước và sau Cách mạng tháng Tám ( năm 1945) đã làm cho họ không thể nào cất đầu dậy nổi. Nhưng trong cuộc đời, có áp bức thì ắt có đấu tranh. Mị và A Phủ cũng như bao người khác nơi đây sẽ vùng lên tự giải phóng, giành lại quyền làm người tự do. Đoạn đời sau của Vợ chồng A Phủ đã chứng minh cho quy luật muôn đời ấy.
Trong tác phẩm giá trị hiện thực đã ẩn chứa những giá trị nhân đạo sâu xa. Có sự căm thù giai cấp thống trị và cái xã hội đầy rẫy sự bất công, tác giả mới lên tiếng tố cáo mạnh mẽ. Có thực sự cảm thương cho số phận đau khổ của con người, tác giả mới viết lên được những trang văn gây xúc động mạnh mẽ đến như vậy.
Tính nhân đạo trong tác phẩm trước hết được thể hiện ở sự bênh vực và cảm thông sâu sắc cho số phận của những con người bất hạnh như Mị và A Phủ. Ở khía cạnh này, Tô Hoài đã tỏ ra có sự am tường sâu sắc từ đời sống vật chất cho đến đời sống tâm lí của đồng bào các dân tộc miền núi Tây Bắc.
Bên cạnh sự cảm thông với những trớ trêu của số phận con người, người đọc cũng cảm nhận được khá rõ thái độ của nhà văn đó là: tố cáo sự hung ác, tàn bạo của bọn quan lại phong kiến miền núi và căm giận những thế lực đã chà đạp lên nhân phẩm của con người. Tô Hoài còn phát hiện và vô cùng trân trọng những phẩm chất cao đẹp của người dân miền núi như khát vọng tự do, hạnh phúc và sức sống tiềm tàng mãnh liệt của họ.
Tác giả không chấp nhận để cho nhân vật của mình bị đẩy vào những tình thế bế tắc và tuyệt vọng. Phần một đã khép lại với một kết thúc tốt đẹp. Mị và A Phủ đã tự giải thoát được. Sang đến phần hai của tác phẩm, họ đã trở thành vợ thành chồng và được sống một cuộc sống tự do, hạnh phúc ở khu du kích Phiềng Sa.
Số phận nô lệ, đầy khổ đau của Mị và A Phủ tiêu biểu cho số phận của người dân miền núi dưới chế độ cũ.
“Vợ chồng A Phủ” là một trong những truyện đã giải quyết được khá sớm vấn đề về số phận của con người trong xã hội thực dân, phong kiến.
Thành công cơ bản của tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” đó là nghệ thuật xây dựng nhân vật của tác giả, đặc biệt là nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật. Cả hai nhân vật Mị và A Phủ đều được thể hiện một cách sống động, đầy chân thực với những nét riêng, nét lạ trong tính cách của người Mông nói riêng và của đồng bào miền núi nói chung. Trên hết là một lối sống mộc mạc, giản dị, hồn nhiên, phóng khoáng và tự do. Những phẩm chất này đã khiến cho người Mông có một sinh lực sống dồi dào khiến họ có đủ sức mạnh để có thể vượt qua bất cứ sự áp bức, sự đè nén nào. Mị -một người có bề ngoài lặng lẽ, âm thầm, nhẫn nhục nhưng bên trong lại sôi nổi một khát vọng sống, khát vọng tự do và hạnh phúc. A Phủ – một con người táo bạo, gan góc mà chất phác, tự tin. Cả hai đều là nạn nhân của bọn chúa đất và quan lại thống trị miền núi tàn bạo, độc ác. Trong con người của họ luôn tiềm ẩn sự phản kháng vô cùng mãnh liệt.
Bút pháp miêu tả tâm lí nhân vật của Tô Hoài vô cùng sắc sảo. Nó được thể hiện rõ nhất qua việc thể hiện những diễn biến nội tâm đầy tinh tế và phức tạp của Mị trong đêm tình mùa xuân và trong hành động Mị cắt dây trói để cứu A Phủ.
Nghệ thuật kể chuyện của Tô Hoài rất uyển chuyển và linh hoạt, vừa tiếp thu nét truyền thống vừa sáng tạo. Ông vẫn kể chuyện chủ yếu theo trình tự thời gian, tạo lên một dòng chảy liên tục nhưng có nhiều lúc lại đan xen quá khứ với hiện tại một cách rất tự nhiên và hợp lí để làm nổi bật lên cái điểu cần thể hiện.
Nhà văn Tô Hoài như làm sống lại trước mắt người đọc cả một quãng đời tăm tối, đầy cơ cực của người dân miền núi dưới ách thống trị dã man, tàn bạo của bọn quan lại, chúa đất phong kiến thông qua việc miêu tả số phận của hai nhân vật đó là Mị và A Phủ. Sự giác ngộ cách mạng của vợ chồng A Phủ trong tác phẩm tiêu biểu cho con đường đến với Đảng, với cách mạng của đồng bào các dân tộc ít người ở vùng miền núi. Qua các hình tượng nhân vật trong tác phẩm, Tô Hoài như gián tiếp khẳng định chỉ có con đường cách mạng mới giải phóng con người thoát khỏi ách thống trị đầy áp bức bất công và giúp con người vươn tới một cuộc sống tự do, hạnh phúc. Đó chính là giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc của tác phẩm. Giá trị này đã giúp tác phẩm này đứng vững trước những thử thách của thời gian và vẫn luôn được nhiều thế hệ bạn đọc yêu thích.
Phân tích bài vợ chồng a phủ
(Bài văn mẫu số 2)
Tô Hoài là một nhà văn, một ngôi sao sáng trong nền văn học Việt Nam, ông bắt đầu sáng tác từ rất sớm và được mọi người chú ý ngay từ những tác phẩm đầu tay. Bằng sự hiểu biết sâu rộng từ nhiều lĩnh vực cùng với vốn sống phong phú về phong tục, tập quán của nhiều dân tộc ở các vùng miền khác nhau trên đất nước nên những tác phẩm của Tô Hoài thường thiên về diễn tả những tình cảnh đời thường. Những tác phẩm của ông luôn hấp dẫn người đọc bởi cái lối kể chuyện hóm hỉnh, sinh động và bởi vốn từ vựng giàu có, độc đáo. Năm 1996, Tô Hoài đã được Nhà nước trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học và nghệ thuật. Truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” viết năm 1952, được in trong tập Truyện “Tây Bắc” (1953) và được tặng giải Nhất – giải thưởng Hội Văn nghệ Việt Nam năm 1954-1955. Đây là một tác phẩm mang lại rất nhiều thành công cho nhà văn Tô Hoài, để lại nhiều ấn tượng sâu sắc trong lòng bạn đọc. Tác phẩm đặc biệt lôi cuốn và hấp dẫn với lời văn giản dị, mộc mạc, am hiểu các văn hóa dân tộc và điểm cốt lõi đó là nêu bật lên giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo sâu sắc. Qua đó cũng nói lên quá trình đến với cách mạng của đòng bào dân tộc thiểu số ở vùng miền núi và con đường mở ra sự tự do hạnh phúc của những số phận éo le, đau khổ.
Tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” kể về cuộc đời, số phận của hai nhân vật đó là Mị và A Phủ. Mị một cô gái xinh đẹp, hồn nhiên, yêu đời bị bắt về làm con dâu trừ nợ cho nhà thống lí Pá tra, cuộc đời cô bắt đầu tăm tối và đau khổ từ đó. A Phủ vì dám đánh con quan là A Sử khi hắn phá cuộc chơi của đám trai làng trong đêm tình mùa xuân, từ đó A Phủ bị phạt vạ và cũng bị bắt phải làm đầy tớ không công cho nhà thống lí. Hai cuộc đời đau khổ gặp nhau, trong đêm lạnh giá Mị đã cắt dây trói để cứu A Phủ bỏ trốn, tìm đến Phiềng Sa rồi họ thành vợ chồng và được cán bộ giác ngộ tìm đến với cách mạng. Câu truyện hiện lên một cách đầy chân thực, mộc mạc nhưng cũng lồng ghép vào đó là tinh thần, là giá trị nhân đạo sâu sắc của tác giả muốn gửi gắm.
Ngay từ đầu tác phẩm Tô Hoài đã đưa ra một hình ảnh hết sức giản dị, chân thật nhưng lại có sức ám ảnh rất lớn đối với người đọc. Đó là hình ảnh “ai ở xa về, có việc vào nhà thống lí Pá Tra thường trông thấy có một cô gái ngồi quay sợi gai bên tầng đá trước cửa, cạnh tầu ngựa”. Cô gái ấy chính là Mị, một cô gái hiền hậu, xinh đẹp và cũng là vợ A Sử con trai của Thống lí Pá Tra. Cuộc đời của Mị đã trải qua rất nhiều đau khổ khi phải sống trong ngôi nhà ấy, vô hồn trong bể khổ.
Cuộc đời Mị bắt đầu hiện lên dần dần qua những trang văn đầy hiện thực nhưng cũng đầy xúc cảm qua ngòi bút tài hoa của tác giả. Mị một cô gái xinh đẹp, khỏe mạnh, yêu đời nhưng vì nhà nghèo nên cô đã bị bắt về làm con dâu gạt nợ cho nhà. Như dự nhận thức được tương lai sau này, Mị đã khuyên cha, “con biết cuốc nương, làm ngô, con sẽ cuốc tương, làm ngô trả nợ thay cha, cha đừng bán con cho nhà thống lí”. Tuy nhiên, trong cái xã hội ngày ấy, đồng bào dân tộc ta bị áp bức, bị đàn áp bởi bọn chúa đất và cho vay nặng lãi chính là một thủ đoạn đầy thâm độc của chúng, ép con người ta tới bước đường cùng. “Ông lão nhớ câu nói của thống lí dạo trước; cho con gái về nhà thống lí thì trừ được nợ. Thế là cha mẹ ăn bạc nhà giàu kiếp trước, bây giờ người ta bắt con trừ nợ. Không làm thế nào khác được rồi”. Thế là Mị bị bắt làm con dâu gạt nợ cho nhà thống lí, thực sự khó mà thoát khỏi cái số kiếp đau khổ. Sự giằng buộc bởi sự tàn ác của chế độ xã hội cũ, thêm vào đó cũng có một phần của những hủ tục, phong tục, tập quán xưa cũ còn lưu lại, Mị còn bị buộc chặt hơn với cái số phận là con dâu trừ nợ vì “đã trình ma” ở nhà thống lí, nghĩa là sống làm người của nhà thống lí chết cũng sẽ làm ma nhà thống lí.
Cuộc sống khốn cùng ấy đã khiến cô nghĩ đến cái chết “Một hôm, Mị trốn về nhà, hai tròng mắt còn đỏ hoe. Trông thấy bố, Mị quỳ, úp mặt xuống đất, nức nở. Bố Mị cũng khóc, đoán biết lòng con gái.
“Mày về chào lậy tao để mày đi chết đấy à? Mày chết nhưng nợ tao vẫn còn quan lại bắt trả nợ. Mày chết rồi, không lấy ai làm nương ngô, trả được nợ, tao thì ốm yếu quá rồi. Không được, con ơi!”. Sự thật thì vẫn mãi là sự thật, đã xảy ra rồi thực sự rất khó mà thay đổi, Mị đau khổ muốn tìm đến cái chết, một sự giải thoát đầy sự tiêu cực, bế tắc. Thế nhưng cuộc đời thật khéo đùa giỡn, vì thương cha nên Mị không thể chết. Cha cô đã già rồi, cô chết đi thì ông cũng sẽ đau lòng gấp bội, nhưng chết đâu có nghĩa là đã hết, nợ vẫn còn đó, sự ác nghiệt ấy vẫn còn đó, cái chết đó đâu thay đổi được gì. Nghĩ đến điều ấy, Mị vứt nắm lá ngón xuống đất, cô chỉ biết khóc, những giọt nước mắt trong tuyệt vọng. Những chuỗi ngày đau khổ vẫn sẽ mãi kéo dài từ đó.
Từ đó trở đi, Mị sống như người không hồn, lầm lũi, vất vả, mang tiếng là con dâu của nhà nhiều đất, nhiều thuốc phiện nhất vùng nhưng Mị lại phải lao động như người hầu, còn không có thời gian nghỉ ngơi. Năm nào cũng vậy, phải làm những công việc giống nhau cứ lặp đi, lặp lại, “tước đay, bẻ bắp”, một cuộc sống tẻ nhạt, mệt mỏi. Cuộc sống vui tươi của cô gái xinh đẹp ngày nào giờ đây chỉ là một màu u ám. Căn phòng mà Mị ở còn không có đủ ánh sáng, nhìn ra ngoài qua cái ô cửa nhỏ “chỉ một màu mờ mờ trắng trắng không rõ”, đầy tù túng, bao quanh là sự vây hãm. Mị còn tự nhủ bản thân mình còn không bằng con trâu, con ngựa.
Cuộc sống ấy cứ trôi đi, trôi đi và cái xác không hồn ấy vẫn phải trải qua những nỗi đau khó tả, nỗi đau về thể xác khi phải làm việc quần quật như trâu ngựa, nhưng nỗi đau ấy đâu thể bằng nỗi đau trong con tim nhỏ bé, nỗi đau của người con gái mất đi sự hạnh phúc, sự hi vọng “Ở lâu trong cái khổ Mị đã quen khổ rồi”. Rồi đêm tình mùa xuân lại đến, mùa xuân là mùa của yêu thương, là mùa của muôn hoa khoe sắc, mùa của trai gái hẹn hò. Tiếng sáo gọi bạn tình lay động lòng người.
“Mày có con trai con gái
Mày đi nương
Ta không có con trai con gái
Ta đi tìm người yêu“
Tiếng sáo gọi bạn tình tha thiết, khiến Mị nghĩ lại những ngày tháng đã qua, Mị cũng biết thổi sáo và thổi lá cũng hay như thổi sao, rồi chợt bừng lên trong đầu bao suy nghĩ “Mị còn trẻ, Mị vẫn muốn đi chơi”. Đâu phải cứ ở lâu trong cái khổ là con người mãi phải tăm tối. Trong lòng Mị cũng đã bùng lên một tia sáng nhỏ nhoi, tâm hồn Mị như phơi phới trở lại, diễn biến tâm trạng của nhân vật có sự thay đổi. Nhà văn Tô Hoài đã vô cùng khéo léo đưa những chi tiết tả thực, nhẹ nhàng nhưng đầy sống động để diễn tả tâm lý nhân vật. “Mị đứng dậy sắn ít mỡ bỏ vào ống dầu cho sáng,…Mị với tay lấy cái váy hoa…”. Trong một giây phút suy nghĩ cô đã muốn vượt ra khỏi cái địa ngục, vượt ra ngoài cái căn phòng tối tăm kia để đến với cuộc sống bên ngoài. Không khí nhộn nhịp, vui tươi của đêm tình đầy mong ước mà đáng ra Mị phải được hưởng, đã từ rất lâu, rất lâu rồi Mị không được sống lại cảm giác ấy. Quả thức, ngòi bút của Tô Hoài đã luồn lách rất sâu vào tâm lý của nhân vật mới có thể lột tả hết cho bạn đọc thấy rõ được một tâm hồn đang trỗi dậy.
Trong lúc Mị đang muốn được giải thoát, dù chỉ là một đêm thôi, một đêm như những người khác “người ta cũng có vợ có chồng, người ta cũng được đi chơi, đăng này Mị và A Sử không có lòng với nhau mà vẫn phải sống với nhau”. Một suy nghĩ mang theo sự phản kháng đã hiện lên, tuy nhiên đúng lúc ấy suy nghĩ của Mị đã bị A Sử chặn lại. Bằng bản tính tàn nhẫn của con quan chúa đất, hắn đã trói Mị vào cột, thậm chí còn cuốn cả tóc mị một cách dã man, tàn độc khiến Mị không sao mà cử động được. Suy nghĩ đã bị dập tắt, nước mắt Mị chảy xuống trong nỗi đau đớn cả về thể xác lẫn tâm hồn, biết nói gì đây khi cuộc sống là vậy, khi bọn tàn ác kia vẫn còn thì bao số phận, bao nhiêu con người vẫn bị vùi lấp vào sự đau khổ. Mị chỉ còn nghe thấy tiếng ngựa đạp vào vách khô không khốc, ánh sáng chập chờn của đèn dầu cũng bị A Sử dập tắt, chỉ còn lại một khe hở le lói yếu ớt. Hiện thực đã hiện lên một cách trần trụi, tố cáo sự tàn bạo, độc ác của bọn thống trị thời đó nhưng cũng đầy sự thương cảm đối với nhân vật Mị.
Cũng trong cái đêm tình mùa xuân ấy, nhân vật A Phủ xuất hiện. Một anh chàng vô cùng khỏe mạnh, dũng mãnh, gan dạ đã dám đánh cả A Sử khi hắn phá vỡ cuộc vui của đám trai làng tìm bạn. Cũng chính vì đánh A Sử nên số phận của A Phủ cũng bị rơi vào nhà của thống lí Pá Tra, cái địa ngục trần gian ấy đã đẩy con người ta đến cái bế tắc cùng cực, dường như chỉ có cái chết mới có thể giải thoát được. Sau cái đêm đánh cho A Sử bị trọng thương, A Phủ đã bị người nhà của thống lí phạt rất nặng, anh bị đánh bầm dập nhưng anh không kêu lên một tiếng nào, điều đó nói lên anh là một con người gan dạ, cứng cỏi vô cùng. A Phủ bị nhà thống lí phạt vạ một trăm quan tiền chẵn. Đó như là một món nợ truyền kiếp, món nợ này đến bao giờ mới trả hết được “đời mày, đời con, đời cháu mày tao cũng bắt thế, bao giờ hết nợ tạo mới thôi”. Vậy là A Phủ phải ở đợ, phải làm thuê không công trả nợ cho nhà thống lí, làm những công việc vất vả như đốt rừng, cày nương, săn bò tót, chăn bò chăn ngựa, bẫy hổ, quanh năm lúc nào cũng một thân một mình rong ruổi ngoài gò rừng. Thực sự không còn có cái gì gọi là công bằng, công lý ở trong cái xã hội ấy mà chỉ còn có áp bức bóc lột. Cuộc sống đầy khổ đau của nhân dân vùng cao trước cách mạng đã hiện lên rất rõ nét qua hai nhân vật Mị và A Phủ.
Và trong một lần lỡ để hổ ăn thịt mất bò của nhà thống lí, A Phủ lại bị chúng phạt nặng, anh bị trói vào chặt vào cột bằng sợi mây siết chặt. Trong đêm mùa đông giá lạnh A Phủ bị đánh đập một cách dã man, bị bỏ đói mấy ngày liền, thực sự chúng không còn tính người, không coi tính mạng của con người bằng súc vật nữa. Cái đêm mùa đông ấy, nếu như A Phủ không được giải thoát thì chắc chắn sẽ chết.
Mùa đông giá rét ở Hồng Ngài thật khiến cho con người ta sợ hãi, hai con người cùng số phận gặp nhau, Mị và A Phủ. Hai con người cùng bị giam chặt, kìm hãm, bị áp đặt cuộc sống và mọi thứ của cuộc đời đã dần như vô nghĩa. Khi Mị bắt gặp hình ảnh A Phủ đang khóc, Mị đã thấy thương cảm cho người con trai đó, rồi nghĩ đến cuộc sống của chính bản thân mình, một ánh sáng như lóe lên trong tâm trí của Mị. Tâm trạng của nhân vật Mị như có một sự chuyển biến rõ nét hơn nữa, Mị đã quyết định cắt dây trói để cứu A Phủ. Đây là kết quả của một quá trình bị dồn nén, áp bức về tinh thần và đọa đày về thể xác, bây giờ đã đến lúc phải chấm dứt nó. Mị cắt dây cứu A Phủ cũng có nghĩa là tự cắt đứt sợi dây vô hình đã trói chặt cô vào quãng đời đầy tủi nhục. Hành động nhanh nhẹn, đầy dứt khoát khi cứu một con người cũng như mang lại chính sự sống cho Mị và rồi Mị và A Phủ, hai người đã cùng nhau trốn đi. Họ đã trốn đến Phiềng Sa sống một cuộc đời mới, một cuộc sống tự do, hạnh phúc và họ cũng tìm đến được với ánh sáng cách mạng.
Qua tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” Tô Hoài đã cho người đọc thấy cuộc sống đầy khổ cực của nhân dân ta trước cách mạng và lên án, tố cáo mạnh mẽ xã hội thời bấy giờ, sự lộng quyền, tàn bạo của bọn nhà giàu chúa đất đã ép con người ta đến bước đường cùng. Tác phẩm cũng đề cao giá trị của con người, giá trị của sự đổi thay khi vùng lên phản kháng, người dân đã tìm đến cách mạng, tìm đến với sự tự do, hạnh phúc. Những trang văn, những hình ảnh được tái hiện trong tác phẩm cũng chính là tiếng nói làm nổi bật lên nét tài hoa, sự tinh tế của nhà văn Tô Hoài để tên tuổi ấy mãi đi vào lòng người đọc.
Phân tích tác phẩm vợ chồng a phủ lớp 12
(Bài văn mẫu số 3)
Tô Hoài – một nhà văn nổi tiếng và là một trong những cây bút văn xuôi hàng đầu của nền văn học hiện đại Việt Nam đồng thời ông cũng là một tấm gương cho con người về sức sáng tạo. Cách kể chuyện của Tô Hoài mang một sức hấp dẫn riêng ở lối kể hóm hỉnh cùng với lời văn giản dị tinh tế mà giàu chất thơ. Trong đó, “Vợ chồng A Phủ” là một tác phẩm tiêu biểu, làm lên tên tuổi trong sự nghiệp của ông.
Tác phẩm này kể về cuộc sống của nhân vật Mị, một cô gái ở vùng miền núi Tây Bắc. Mị vốn là một người con gái vô cùng xinh đẹp, có tài thổi sáo, lại là một người con hiếu thảo, thương yêu và biết chăm lo giúp đỡ gia đình. Nhưng số phận thật trớ trêu khi Mị bị bắt làm con dâu của nhà thống lý để trả món nợ truyền kiếp của gia đình. Có lẽ, trong cái xã hội lúc bấy giờ, có vô số những con người đang phải chịu cảnh éo le như Mị vậy, bởi hình thức cho vay nặng lãi của bọn quan lại giàu có như Pá Tra mà họ đã phải dùng cả cuộc đời, thậm chí là đánh đổi cả tương lai và hạnh phúc của bản thân để trả.
Ngày về làm dâu, là ngày Mị mất đi hết quyền tự do, bao nhiêu nỗi uất ức, đau khổ đều mình cô gánh chịu. Đau đớn thay cho số phận của người đàn bà, phận của con nợ hẩm hiu với cuộc sống lầm lũi. Trước kia Mị trẻ đẹp, hồn nhiên yêu đời bao nhiêu thì giờ đây càng tồi tệ và thê thảm bấy nhiêu: “Có đến mấy tháng, đêm nào Mị cũng khóc”, có những lúc Mị chỉ muốn dùng nắm lá ngón mà tự tử, kết liễu cái cuộc đời khổ nhục này, nhưng vì nghĩ đến người cha khổ cực ở nhà, cô đành ngậm ngùi cam chịu. Tình thân chính là thứ duy nhất để Mị tiếp tục cố gắng cam chịu, bởi hơi ai hết, Mị hiểu cha cô đã khổ quá nhiều rồi. Những nỗi vất vả, những công việc nặng nhọc nơi nhà thống lý đều là một tay Mị làm, con dâu ở một nhà quyền thế nhưng lại không khác con ở là bao.
Lâu dần, Mị đã quen với cái khổ, rồi cũng chẳng con thiết tha, chẳng còn màng gì nữa, cứ thế mà lầm lũi qua ngày: “Mị quên với cái khổ rồi. Bây giờ Mị tưởng mình là con trâu, con ngựa… chỉ biết việc ăn cỏ, việc đi làm mà thôi“. Bao công việc từ giặt đay, bẻ bắp, rồi hái thuốc phiện…Mị đều làm mà không một lời kêu ca than vãn, mà có kêu có than cũng chẳng có ai quan tâm đến.
Đau khổ về thể xác là một phần, tinh thần của Mị cũng bí bách khôn nguôi. Có điều gì buồn hơn khi lấy chồng mà người đó không phải người mình thương, đến sự sẻ chia, một lời an ủi cũng chẳng có, chứ nói gì là người bạn tâm tình những lúc chán nản, mệt nhoài: “Mỗi ngày Mị càng không nói , lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa“. Đớn đau thay cho những kiếp người nghèo khổ, phải chịu bao nỗi bất công, tuyệt vọng ngập tràn. Dường như lúc này Mị đang phó mặc cuộc đời mình cho số phận vậy. Đọc những dòng miêu tả Mị lúc này, ta càng cảm thấy xót thương, đồng cảm và cũng căm phẫn thật nhiều. Xót thương cho cuộc đời của cô, căm phẫn với cái chế độ tàn bạo, bất công của xã hội lúc bấy giờ, đã đẩy con người đến đường cùng tăm tối.
Tuy sống cam chịu, lầm lũi nhưng tận sâu trong lòng Mị vẫn luôn âm ỉ một sức sống mãnh liệt chỉ chực chờ để bụng toả. Trước kia Mị là một cô gái trẻ yêu đời, hồn nhiên cùng với khao khát tự do và có một niềm tin yêu cuộc sống. Sức trẻ và khát vọng hạnh phúc ấy không lụi tắt đi mà nó chỉ bị kìm xuống bởi những bất công, bạo tàn mà thôi. Để rồi khi đêm tình mùa xuân tới, khắp vùng trời Tây Bắc đang chào đón mùa xuân tới cùng với tiếng sáo gọi bạn tình tha thiết, thì lòng Mị lại bồi hồi rạo rực với những kỉ niệm thời con gái chưa xa: “Ngoài đầu núi lấp ló có tiếng ai thổi sáo gọi bạn đi chơi. Nghe tiếng sáo vọng lại thiết tha bồi hồi“. Tiếng sáo ấy đã thôi thúc Mị đứng lên, tiếp tục sống và nó thôi thúc bao nỗi khát khao trong lòng cô. Mị đã lén uống rượu, Mị uống ực từng bát và rồi say, hơi rượu đã đưa Mị trở về với những kí ức xưa “Mị thấy phơi phới trở lại“. Mị tìm đến nơi góc nhà, lấy cái ống mỡ bỏ vào đèn để thắp lên thứ ánh sáng le lói, là thứ ánh sáng của niềm tin nơi tăm tối, ngục tù. Mị cũng muốn được đi chơi “ Mị quấn lại tóc, Mị với tay lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách.”
Nhưng thật tàn nhẫn, khi tên A Sử tàn nhẫn kia đã đứng trước mặt Mị, hắn không cho Mị đi chơi, khong những thế hắn còn trói cô vào cột nhà bằng những sợi đay rừng. Chính hắn là kẻ đã dùng bàn tay tàn ác kia để trói buộc, giam giữ cuộc đời nàng, giờ đây đến cả một điều ước đơn giản là muốn được đi chơi xuân cũng bị hắn vùi dập. Lúc này đây, Mị đang bị nỗi đau thể xác hành hạ nhưng cô lại không cảm nhận được cái đau ấy vì hơi men rượu đã làm cô lâng lâng và lòng cô vẫn đang mê say với tiếng sáo tha thiết kia. Có những lúc Mị đã vùng bước đi nhưng không thể làm gì khác, thực tại quá phũ phàng, nó đã bóp nghẹt khát vọng sống của cô một lần nữa.
Sau đêm tình mùa xuân ấy, Mị lại quay trở lại với cuộc sống thường ngày của cô, lầm lũi cam chịu. Khi nhìn thấy A Phủ đang bị trói vào cột đứng ngoài sân, Mị cũng đã dửng dưng vô cảm với điều ấy, bởi lẽ cảnh người bị trói, bị hành hạ, bị đánh đập ở nhà thống lí đã quá quen thuộc trong nhận thức của Mị. Nói đến A Phủ, anh là một chàng trai có hoàn cảnh hết sức éo le, mồ côi cha mẹ, cũng không có họ hàng thân thích nào. Cũng chính vì hoàn cảnh ấy, cùng với cuộc sống vất vả, khó khăn mà anh lớn lên, trưởng thành trở thành một chàng trai mạnh mẽ, táo bạo gan dạ và biết bất bình với những bất công của xã hội. Cũng chính vì thấy bất bình khi A Sử phá đám trong đêm tình mùa xuân mà anh đã đánh hắn, dẫn đến việc anh phải vào nhà thống lí làm thuê để gạt nợ. Anh đã làm phăng phăng mọi công việc ở đây, từ cày nương, đốt rừng, săn bò tót, bẫy hổ…Và rồi một ngày anh mải bẫy nhím mà để hổ ăn mất mọt con bò nhà thống lí nên mới dẫn đến cơ sự như hôm nay. Anh bị đánh đập một cách dã man và bị trói đứng ở cột giữa nhà. Tỉnh dậy trong ánh lửa le lói, Mị đã nhìn thấy dòng nước mắt đang rơi dài trên má của A Phủ. Giọt nước mắt ấy đã khiến Mị nhớ lại đêm năm trước, Mị cũng đã từng phải chịu nỗi hành hạ, đớn đau ấy, rồi lại nhớ đến chuyện người đàn bà xưa kia đã bị trói chết đứng trong nhà, Mị lo sợ rằng có lẽ trong đêm nay hoặc đêm mai nữa thì người kia cũng sẽ phải chết thôi. Mị chìm vào dòng suy nghĩ, sự đấu tranh nội tâm đã đưa Mị đi đến một hành động quyết liệt là cắt dây trói cứu A Phủ. Dù biết đây rằng hành động này có thể khiến bản thân sẽ chết, song Mị vẫn chấp nhận hi sinh tính mạng mình để cứu lấy con người tội nghiệp kia. Hành động này thể hiện sự phản kháng vô cùng mạnh mẽ của con người trước những tội ác, sự bất công đồng thời cũng thấy được tình thương yêu giữa những con người nghèo khổ dành cho nhau. Trong đầu Mị cũng đã thoáng nghĩ qua chuyện sẽ chết thay cho A Phủ nhưng không, Mị đã bất ngờ quyết định đi theo A Phủ. Mị có thể cứu được A Phủ thì không có lí do gì mà Mị không tự cứ chính mình thoát khỏi nơi này. Đây là một sự lựa chọn vô cùng đúng đắn để Mị có thể giải thoát cho cuộc đời mình.
Cuối cùng, Mị và A Phủ cũng đã thoát ra khỏi tù ngục, nơi đã đày đọa hai người họ suốt mấy năm qua. Thoát khỏi Hồng Ngài, hai người họ đi tới Phiềng Sa và thành vợ thành chồng. Cùng với đó, họ đã được cán bộ giác ngộ cách mạng và đứng lên anh dũng đấu tranh giành lại quyền tự do cho con người.
Đọc tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”, ta mới thấy được sự tài năng vượt bậc của Tô Hoài trong việc khắc hoạ tâm lí nhân vật. Mỗi hành động, mỗi cử chỉ của nhân vật đều gắn với những nét tính cách, những chuyển biến tâm lí đầy tinh vi được thể hiện rất rõ nét. Tác phẩm đã vạch trần được những tội ác và sự bất công ngang trái trong xã hội xưa, đồng thời nói lên tiếng nói thương cảm của Tô Hoài với những người dân đồng bào miền núi chịu nhiều khổ cực. Ngoài ra, nhà văn còn đưa đến một thông điệp ý nghĩa về giá trị sống đó là: Trong cực khổ, bần hàn ta vẫn cần có sự cố gắng, sống và quyết tâm để vươn tới những chân trời tự do, tin tưởng vào một tương lai tươi đẹp phía trước.
XEM THÊM:
Soạn văn phân tích ai đã đặt tên cho dòng sông
PHÂN TÍCH TÁC PHẨM NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ
PHÂN TÍCH CHI TIẾT BÀI ĐÀN GHITA CỦA LORCA
Học tốt môn ngữ văn lớp 12 với soạn văn tất cả các tác phẩm