PHÂN TÍCH BÀI NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ (NGUYỄN TUÂN)

5748
cảm nhận về hình tượng người lái đò sông đà
cảm nhận về hình tượng người lái đò sông đà
5/5 - (2 bình chọn)

“Người lái đò sông Đà” là một tùy bút nổi tiếng của Nguyễn Tuân phác họa hình ảnh về dòng sông Đà và người lao động tài hoa, trí dũng. Bài soạn văn “Phân tích tác phẩm Người lái đò sông Đà” của Nguyễn Tuân dưới đây sẽ giúp các bạn tìm hiểu, khám phá hình tượng dòng sông Đà và hình tượng ông lái đò được nhà văn xây dựng qua tùy bút. Hãy cùng tham khảo nhé.

Tham khảo thêm: Phân tích bài Người lái đò sông Đà

Dàn ý người lái đò sông Đà chi tiết

1. Mở bài người lái đò sông đà hay nhất

Giới thiệu vài nét về tác giả Nguyễn Tuân và tác phẩm Người lái đò sông Đà.

  • Nguyễn Tuân có một phong cách nghệ thuật độc đáo, với cái tôi đầy cá tính, một nhà văn tài hoa uyên bác, luôn khám phá thế giới trên bình diện văn hóa thẩm mĩ.
  • Người lái đò sông Đà được sáng tác trong giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, cói nội dung ngợi ca vẻ đẹp của con người và thiên nhiên vùng Tây Bắc.

2. Thân bài phân tích tác phẩm

2.1. Ý nghĩa lời đề từ

  • Lời đề từ “Đẹp vậy thay tiếng hát trên dòng sông”: thể hiện xúc cảm dâng trào mãnh liệt trước vẻ đẹp của dòng sông và sự gắn bó của con người với dòng sông, thấy được cảm hứng chủ đạo là ngợi ca.
  • Lời đề thứ 2: “Chúng thủy giai đông tẩu – Đà giang độc bắc lưu” : thể hiện nét cá tính độc đáo của con sông Đà.

2.2. Vẻ đẹp của dòng sông Đà trong tác phẩm

2.2.1. Vẻ đẹp đầy hung bạo của dòng sông Đà:

  • “Cảnh đá bờ sông dựng vách thành”: dòng sông cao vút,dựng đứng; lòng sông thì hẹp đến nỗi mà “con nai, con hổ có lần vọt từ bờ sông này sang bờ kia”.
  • Ở mặt ghềnh Hát Loóng “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió” hiện ra hình ảnh dòng sông một cách hỗn độn, lúc nào cũng như “đòi nợ suýt” những người lái đò.
  • Ở Tà Mường Vát thì “có những cái hút nước giống như cái giếng bê tông”, dòng nước “thở và kêu như cửa cống cái bị sặc nước”.
  • Trận địa thác đá được tác giả miêu tả từ xa đến gần:
    • Xa: từ xa âm thanh của thác nước hiện lên với nhiều trạng thái như: “oán trách”, “van xin”, “khiêu khích”, “chế nhạo”; “rống lên như một ngàn con trâu mộng … cháy bùng bùng” (lấy lửa để tả nước).
    • Gần: những hòn đá cũng đầy mưu mẹo: “nhăn nhúm”, “hất hàm”, “oai phong”, chúng có những hành động như “mai phục”, “chặn ngang”, “tiêu diệt”; sóng thì: “đánh khuýp quật vu hồi”, “đánh giáp lá cà”, “đòn tỉa”.
    • Sự biến hóa đầy linh hoạt của 3 trùng vi thạch trận.
  • Nhận xét: dòng sông Đà mang diện mạo và tâm địa của một con thủy quái, “dòng thác hùm beo”, nó là thứ kẻ thù số một của con người.

2.2.2. Vẻ đẹp đầy trữ tình của dòng sông Đà

  • Từ trên cao nhìn xuống dòng sông như “dây thừng ngoằn ngoèo”, “áng tóc trữ tình”, vào mùa xuân nó có màu xanh ngọc bích, thu lừ lừ chín đỏ.
  • Khi đi rừng lâu ngày và được gặp lại: sông Đà được ví như một “cố nhân”, có ánh sáng “loang loáng như trẻ con chiếu gương vào mắt”, hay như “nắng tháng ba Đường thi”…
  • Khi đi thả con thuyền trên dòng sông: “bờ sông như một bờ tiền sử”, “hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”, thiên nhiên thì mơn mởn như: “lá ngô non”, “con hươu thơ ngộ”…

2.3. Cảm nhận hình tượng người lái đò sông đà

  • Có thể liên hệ đến hình ảnh của Huấn Cao – một người anh hùng trong quan niệm của nhà văn Nguyễn Tuân trước cách mạng để dẫn dắt sang hình tượng người lái đò.
  • Về lai lịch: tác giả như phớt lờ xuất thân, tập trung miêu tả về ngoại hình: “tay lêu nghêu … chất mun” để ngợi ca những con người vô danh đã âm thầm cống hiến.
  • Công việc: đó là lái đò trên sông Đà, hằng ngày đối diện với con thủy quái đầy hung bạo..
  • Tài năng và tâm hồn của người lái đò trên dòng sông Đà:
    • Là một người từng trải, hiểu biết và rất thành thạo trong nghề lái đò: “trên sông Đà ông đã xuôi ngược hơn một trăm lần”, “nhớ tỉ mỉ … những luồng nước”…
    • Là một người mưu trí dũng cảm, đầy bản lĩnh và tài ba: ung dung đối đầu với con thác dữ “nén đau giữ mái chèo, tỉnh táo chỉ huy bạn chèo …”, “nắm chắc binh pháp của thần sông thần núi”, với động tác điêu luyện “cưỡi đúng ngay trên bờm sóng, phóng thẳng thuyền vào giữa thác …”
    • Là một người nghệ sĩ tài hoa: ưa những khúc sông có nhiều ghềnh thác, không thích lái đò trên khúc sông phẳng lặng, coi việc chiến thắng “con thủy quái” ấy là chuyện thường.
  • Tổng quát phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân.

3. Kết bài người lái đò sông đà

  • Khái quát nội dung của tác phẩm: ca ngợi vẻ đẹp con người lao động và vẻ đẹp thiên nhiên đất nước.
  • Tổng kết những nét nghệ thuật đặc sắc: ngôn ngữ điêu luyện, sự tưởng tượng độc đáo, vận dụng tri thức của nhiều ngành nghệ thuật, xây dựng thành công hình ảnh sông Đà và ông lái đò.

Sơ đồ tư duy Người lái đò sông Đà

sơ đồ tư duy người lái đò sông đà
Chi tiết sơ đồ tư duy người lái đò sông đà

Một số bài văn mẫu phân tích Người lái đò sông Đà hay nhất

 

Phân tích người lái đò sông đà
Phân tích người lái đò sông đà

Phân tích hình tượng người lái đò sông đà

(Bài văn mẫu số 1)

Nguyễn Tuân một người nghệ sĩ suốt một đời luôn đi tìm và trăn trở về cái đẹp. Nếu như trước cách mạng ông thoát ly thực tại, đi về quá khứ  tìm cái đẹp ở thời còn vang bóng, thì sau cách mạng ông cũng vẫn đi tìm cái đẹo, nhưng ông tìm thấy cái đẹp trong cuộc sống này, ở những con người lao động hết sức bình dị. “Người lái đò sông Đà” được trích trong tập bút kí “Sông Đà”, đây là những nét vẽ chân thực về vẻ đẹp hùng vĩ của thiên nhiên nơi Tây Bắc và vẻ đẹp hào hùng của con người trong lao động.

Tập tùy bút “Sông Đà nói chung chính là kết quả chuyến đi thực tế của Nguyễn Tuân lên Tây Bắc vào những năm 1958-1960. Đây là thời kỳ miền Bắc sau những ngày giải phóng đang tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đi theo tiếng gọi của Đảng miền Bắc những người dưới xuôi tình nguyện đến những vùng xa xôi của Tổ quốc để khôi phục kinh tế cũng như hàn gắn vết thương chiến tranh.

Như chúng ta đã biết, mỗi một lời đề từ xuất hiện, thường sẽ là chìa khóa mở cánh cửa vào tác phẩm, hé lộ những tư tưởng, chủ đề và cảm hứng chủ đạo. “Người lái đò sông Đà đã sử dụng hai lời đề từ. Lời đề từ đầu tiên: “Đẹp vậy thay, tiếng hát trên dòng sông”, đây là một câu thơ vô cùng nổi tiếng của nhà thơ cách mạng Ba Lan mang cấu trúc cảm thán. Câu thơ cũng có thể là câu hát của những người chèo đò, kéo thuyền vượt thác với một tâm hồn lạc quan, yêu đời, yêu thiên nhiên, yêu lao động, cũng có thể là sự ngợi ca của chính tác giả trước tư thế làm chủ thiên nhiên của con người trong cuộc sống mới. Lời đề từ thứ hai, Nguyễn Tuân đã mượn câu thơ của Nguyễn Quang Bích: “Chúng thủy giai đông tẩu/ Đà giang độc bắc lưu”. Câu thơ ấy đã hé mở cho người đọc thấy rằng mọi dòng sông đều chảy về hướng đông, duy có dòng sông Đà là chảy theo hướng Bắc. Câu thơ đã khẳng định sự độc đáo của sông Đà, đồng thời cũng hé lộ cái nét cá tính nghệ thuật của Nguyễn Tuân – nhà văn của những phong cảnh tuyệt mĩ và cảm giác mãnh liệt.

Trước hết về hình tượng của con sông Đà được Nguyễn Tuân miêu tả từ nhiều phương diện khác nhau, nó vừa mang một vẻ đẹp hung bạo nhưng đồng thời cũng hết sức nên thơ, trữ tình. Vẻ đẹp hung bạo ấy của dòng sông được nhà văn thể hiện ở cảnh đá bờ sông dựng vách thành. Lúc ấy “mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời” như gợi ra được độ cao và diễn tả được cái sự lạnh lẽo, âm u của khúc sông. Không chỉ có vậy “vách đá thành chẹt lòng Sông Đà như một cái yết hầu” đã nói lên sự nhỏ hẹp của dòng chảy, gợi ra một lưu tốc rất lớn, nhất là vào mùa nước lũ với bao nhiêu nguy hiểm rình rập xung quanh. Với sự liên tưởng độc đáo, Nguyễn Tuân đã tiếp tục khắc họa đậm nét hơn nữa về những vách đá đầy lạnh lẽo, tăm tối, ở khúc sông nhỏ và hẹp: “ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào trên các tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện”.

Không chỉ có  như vậy sự hung bạo của con sông còn được thể hiện ở “quãng mặt ghềnh Hát Loóng”, ở đoạn này, Nguyễn Tuân đã dùng phép nhân hóa, nhân hóa dòng sông như một sinh thể  là người, đó là một kẻ đi đòi nợ thuê, với gương mặt dữ dằn và tàn bạo. Câu văn với nhịp điệu dồn dập, điệp từ, điệp cấu trúc được tác giả vận dụng liên tiếp “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió” kết hợp cùng với các thanh trắc liên tiếp đã tạo lên một âm hưởng dữ dội, nhịp điệu khẩn trương và dồn dập như vừa xô đẩy, vừa hợp sức của sóng, gió và đá đã khiến cho cả ghềnh sông như sôi lên, cuộn chảy dữ dằn, tạo lên mối đe dọa nguy hiểm đối với bất kì một người lái đò nào “quãng này mà khinh suất tay lái thì cũng dễ lật ngửa bụng thuyền ra”.

Sự hung bạo ấy còn được thể hiện qua hình ảnh những cái hút nước tàn độc, được giăng mắc trên khắp các khúc sông, như túc trực để lấy mạng của con người bất cứ lúc nào. Để tái hiện sự khủng khiếp, ghê rợn của những cái hút nước, Nguyễn Tuân đã lia máy quay ở nhiều hướng khác nhau, cho người đọc một cái nhìn toàn diện và đầy đủ nhất. Khi nhìn từ trên xuống mặt nước sông trông “giống như cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu”; còn khi từ dưới lòng sông nhìn ngược lên thì “thành giếng xây toàn bằng nước sông xanh ve một áng thủy tinh khối đúc dày, khối pha lê xanh như sắp vỡ tan ụp vào…”. Và để giúp cho người đọc cảm nhận được rõ nét hơn, tác giả đã đưa ra những vị thế cảm nhận khác nhau, với vị trí của người quay phim thì “ngồi vào một cái thuyền thúng tròn vành rồi cho cả thuyền cả mình cả máy quay xuống đáy cái hút sông Đà…” ; đối với người xem phim thì lại thấy “thấy mình đang lấy gân ngồi giữ chặt ghế như ghì lấy mép một chiếc lá rừng bị vứt vào một cái cốc pha lê nước khổng lồ vừa rút lên cái gậy đánh phèn…”. Với những trải nghiệm và các góc nhìn phong phú, Nguyễn Tuân đã cho người đọc cảm nhận đầy đủ và rõ nét hơn về mức độ nguy hiểm tột cùng của dòng sông Đà, mà ở đây chính là những cái hút nước.

Cuối cùng sự hung bạo, dữ tợn của sông Đà được tác giả khắc họa ở các trùng vi thạch trận khác nhau. Với trùng vi thạch trận thứ nhất đó là “cả một chân trời đá”, và “mặt hòn đá nào trông cũng ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt nước chỗ này”. Đá còn biết bày binh bố trận, như cố tình nhấn chìm cả con thuyền. Trùng vi thạch trận thứ hai như  tiếp tục tăng thêm thử thách, có thêm nhiều cửa tử hơn để đánh lừa con thuyền và chỉ có duy nhất một cửa sinh mà thôi. Cửa sinh ấy lại cũng không kém phần nguy hiểm khi “thằng đá tướng đứng chiến ở cửa vào”, phối hợp với đá là dòng thác như hùm beo như chực chờ để vồ và nhấn mình con thuyền xuống đáy sông. Ở trùng vi thạch trận cuối cùng rất ít cửa ra vào, “bên phải bên trái đều là luồng chết cả”, và chỉ có một luồng sống lại “ở ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác”. Tất cả các trùng vi, thạch trận đều ấy đều vô cùng hiểm ác, với mục đích duy nhất đó là làm cho con thuyền mất sức mà bỏ mạng.

Bên cạnh vẻ đẹp hung bạo, dữ tợn ấy sông Đà lại hiện lên một vẻ đẹp rất khác và hoàn toàn đối lập, đó chính là vẻ đẹp trữ tình. Nhìn từ trên cao xuống, dòng chảy của con sông uốn lượn giống như “cái dây thừng ngoằn ngoèo dưới chân mình”, đặc biệt là trông giống như mái tóc của một người thiếu nữ “con sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân”. Dòng sông Đà như một người thiếu nữ, với mái tóc dài, tha thướt và uyển chuyển không ngờ. Vẻ đẹp của dòng sông này thật hài hòa với núi rừng Tây Bắc và được núi rừng điểm tô thêm cho nhan sắc mĩ miều. Không chỉ vậy ở những thời điểm khác nhau thì sông Đà cũng mang một vẻ đẹp riêng. Vào mùa xuân, nước Sông Đà xanh như màu “xanh ngọc bích”, tươi sáng, trong trẻ, lấp lánh. Sang tới mùa thu, nước Sông Đà lại “lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về”. Không chỉ vậy, vẻ đẹp sông Đà như được bước ra từ một miền cổ tích xa xôi, với những bãi bờ đầy hoang dại như thời tiền sử: “bờ sông Đà, bãi sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm trên sông Đà”. Nhà văn đã cảm nhận được cái chất “đằm đằm ấm ấm” thân quen khi được gặp lại sau một thời gian “ở rừng đi núi đã hơi lâu”.

Người lái đò sông Đà” không chỉ nổi bật ở hình tượng của con sông Đà, mà để điểm tô, hoàn thiện hơn vẻ đẹp của nó cần có sự xuất hiện của con người. Và thật đẹp đẽ làm sao khi chân dung của người lái đò đã được Nguyễn Tuân thể hiện một cách tài tình, rõ nét. Người lái đò ấy không có một cái tên gọi cụ thể, mà chỉ được gọi tên là “người lái đò Lai Châu”. Để làm bật lên vẻ đẹp người lái đò, chân dung của ông luôn được tái hiện tương quan với dòng sông Đà. Nghệ thuật tương phản như đã làm nổi bật một cuộc chiến không cân sức: một bên là thiên nhiên bạo tàn, hung dữ, sức mạnh vô song với sóng, thác nước, với thạch tinh nham hiểm, còn một bên là những con người bé nhỏ trên chiếc thuyền con én đơn độc cùng với vũ khí trong tay chỉ là những chiếc cán chèo. Nhưng dù sông Đà có xảo quyệt bao nhiêu thì người lái đò ấy lại kiên cường bám trụ lại bấy nhiêu “hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng trận địa phóng thẳng vào mình”. Đặc biệt trong lần vượt trùng vi thạch trận cuối, ông lái đò đã thể hiện được rõ tài nghệ của mình. Ông “phóng thẳng thuyền, chọc thủng cửa giữa đó. Thuyền vút qua cổng đá”, “vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được lượn được…” để rồi đã giành chiến thắng vinh quang. Câu “thế là hết thác” như là một tiếng thở phào nhẹ nhõm khi ông lái đã bỏ lại hết những, khó khăn, những thác ghềnh ở phía sau lưng. Chiến thắng của ông được xuất phát từ sự ngoan cường, đầy lòng dũng cảm và ý chí quyết tâm vượt qua những thử thách khốc liệt của cuộc sống. Đây cũng chính là chiến thắng của tài trí con người, của sự am hiểu đến tường tận tính nết của con sông Đà.

Đặc biệt, cũng như các nhân vật khác của mình, người lái đò còn được nhà văn Nguyễn Tuân khắc họa ở một vẻ đẹp tài hoa, nghệ sĩ. Tài hoa là khi con người đạt tới một trình độ điêu luyện, vô cùng thuần thục trong công việc của mình và đến độ có thể sáng tạo được, có thể vươn tới tự do. Chính vì vậy, Nguyễn Tuân đã tập trung bút lực vào việc ca ngợi hình ảnh của ông lái băng băng trên dòng thác sông Đà một cách vô cùng ung dung, bình tĩnh, tự tại trong cuộc chiến đầy cam go, máu lửa nhưng cũng thật hào hùng. Và phong thái nghệ sĩ của ông lái đò đã được thể hiện qua cách ông nhìn nhận về công việc của mình, bình thản đến độ lạ lùng. Khi dòng sông vặn mình hết thác cũng cính là khoảnh khắc “sóng thác xèo xèo tan trong trí nhớ”. Những người lái đò dừng chèo, đốt lửa để nướng ống cơm lam, bàn về cá dầm xanh, cá anh vũ “về những cái hầm cá hàng cá mùa khô nổ những tiếng to như mìn bộc phá rồi cái ứa ra tràn đầy ruộng”.

Bằng ngòi bút vô cùng tài hoa và tinh tế, Nguyễn Tuân đã tạo lên những trang văn đẹp cả về hình thức lẫn tư tưởng. Tác phẩm được tạo lên từ tình yêu quê hương đất nước nồng nàn, tha thiết. Không chỉ ngợi ca cái vẻ đẹp hùng vĩ của quê hương đất nước mà qua đó còn khẳng định sự lớn lao và sức mạnh phi thường của những con người lao động bình thường trong hành trình chinh phục thiên nhiên.

Phân tích bài thơ người lái đò sông đà
Phân tích bài thơ người lái đò sông đà

Phân tích bài người lái đò sông đà

(Bài văn mẫu số 2)

Nói đến Nguyễn Tuân là người ta sẽ nghĩ ngay đến một nhà văn suốt đời đi tìm đến những cái đẹp. Cái đẹp trong tác phẩm của ông phải là những cái đẹp mà đạt đến độ hoàn thiện, hoàn mỹ. Sự nghiệp cầm bút của Nguyễn Tuân đã đạt được rất nhiều thành tựu cả trước và sau cách mạng. “Người lái đò sông Đà” được trích từ tập tuỳ bút “Sông Đà” (viết năm 1960), là một trong những sáng tác tiêu biểu nhất của Nguyễn Tuân sau cách mạng tháng Tám.

“Người lái đò sông Đà” là kết quả của chuyến đi tới Tây Bắc của Nguyễn Tuân để kiếm tìm cái “chất vàng thử lửa của thiên nhiên Tây Bắc” và cái “chất vàng mười đã qua thử lửa” của con người nơi đây. 

Ngay trong những câu văn đầu tiên, Nguyễn Tuân đã thể hiện lên sự hung bạo của sông Đà. Dòng sông ấy không trôi giữa đôi bờ “cát trắng phẳng lì” đầy thơ mộng mà bờ sông lại “dựng vách thành”, cao vút và dựng đứng. Lòng sông thì hẹp đến nỗi “có quãng con nai, con hổ có lần vọt từ bờ sông này sang bờ kia”, “…mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời”, “ngồi trong…đang mùa hè đi đò qua quãng ấy cũng cảm thấy lạnh”, cái lạnh ấy là cái lạnh của từng lớp da thịt, của sự sợ hãi trước thiên nhiên nơi đây. Khi đi qua cái quãng này, người ta cảm tưởng như “đang đứng ở một cái ngõ nào mà ngóng vọng lên cái cửa sổ trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện”. Với một loạt hình ảnh miêu tả, tác giả đã đẩy người đọc từ nơi phố xá đô thị về một khung cảnh hoang vu đến đáng sợ của thiên nhiên sông nước. Hiện ra trước mắt người đọc là một khúc sông Đà vừa sâu, vừa hẹp, vừa tối lại vừa lạnh đủ để bất kỳ ai đến nơi đây cũng phải rùng mình vì sợ hãi.

Đi qua cả bảy mươi ba cái ghềnh, ta có thể kể tên đến năm mươi cái ghềnh nhưng sợ hãi nhất vẫn là ghềnh Hát Loóng với “dài hàng cây số, nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm…”. Kết cấu trùng điệp cùng nhịp văn nhanh mạnh khiến cho người đọc không khỏi hãi hùng trước những âm thanh của sóng, của gió, của nước và đá. Các từ láy “cuồn cuộn”, “gùn ghè” vừa gợi ra âm thanh ghê rợn vừa gợi lên những hình ảnh khủng khiếp của nơi đây. Con sông Đà ấy được miêu tả như kẻ sẵn sàng “đòi nợ xuýt” những người trên sông. Nó có thể gây ra rất nhiều những nguy hiểm mà con người ta không thể nào lường trước được.

Nhiêu đó vẫn chưa thể nào kể hết được những sự đáng sợ của sông Đà. Nguyễn Tuân đã sử dụng một loạt các thủ pháp nghệ thuật khác nhau để lột tả hết những cái vẻ hung bạo, dữ tợn của sông Đà. Nhìn từ phía xa những cái xoáy nước trên con sông ấy giống như cái lúm đồng tiền trên má của một cô gái, nhưng nó lại không hề mang nét duyên dáng, dễ thương, mà thay vào đó nó có thể lôi tuột, nuốt chửng một cái thuyền xuống đáy sông và đánh cho tan xác. Không chỉ vậy, tác giả còn so sánh những cái hút nước ấy với cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu. Hình ảnh so sánh này vừa gợi lên cái độ sâu hun hút của những cái xoáy nước lại vừa khiến cho người đọc khiếp sợ khi hình dung ra nó. Càng cảm thấy sợ hãi hơn khi đọc đến những câu văn miêu tả âm thanh của những cái hút nước. “Nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc”. Nước không chỉ dồn về đó nhiều và nhanh mà nó còn ặc ặc như mới rót dầu sôi vào. Từ láy “ặc ặc” gợi lên cảm giác con sông Đà giống như một con thuỷ quái bị bóp chặt yết hầu đang đau đớn quằn quại giãy giụa. Sự hung bạo này khiến cho nhà văn liên tưởng tới hình ảnh một anh quay phim táo tợn nào đó dám mang máy quay và ngồi trên thuyền thúng xuống tận cái hút sông Đà, rồi từ đó lia ngược cái ống kính để ghi lại những cảnh tượng ghê sợ: một cái giếng như mang màu xanh toàn bằng thuỷ tinh như sắp vỡ tan ra và đổ ụp xuống cả người, cả máy quay phim. “Con thuyền xoáy tít, những thước phim màu cũng quay tít”. Ngòi bút đầy sắc sảo của Nguyễn Tuân đã khiến cho người đọc cảm giác như đang được xem một bộ phim hành động hấp dẫn, lôi cuốn nhưng cũng vô cùng đáng sợ.

Sự hung bạo, dữ tợn của sông Đà còn được miêu tả qua những cái thác nước. Nhà văn hướng cho người đọc chú ý vào cái âm thanh của chúng và miêu tả lần lượt từ xa đến gần. “Còn xa lắm mới đến cái thác” nhưng tâm địa và diện mạo của thứ “kẻ thù số một của con người” ấy đã dần hiện ra. Chúng vọng tới bằng âm thanh “réo gần mãi lại réo to mãi lên”. Tiếng thác nghe như là tiếng “oán trách”, “van xin”, “khiêu khích”, giọng gằn mà đầy sự “chế nhạo”. Sự kết hợp khéo léo giữa so sánh và nhân hoá này đã khiến cho con sông Đà hiện lên với một tâm địa phức tạp. “Thế rồi nó rống lên”, âm thanh được phóng to đến hết cỡ giống như chúng đang ở đỉnh điểm của một cơn phấn khích man dại. Nhà văn còn so sánh tiếng thác sông Đà giống như tiếng của một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn để phá tan sự bủa vây của rừng lửa. 

Và để tăng thêm sự hung tợn của sông Đà, tác giả còn hướng ngòi bút của mình vào miêu tả đá sông. Hình ảnh ẩn dụ “cả một chân trời đá” đã gợi cảm giác đá của con sông Đà nhiều vô kể. Những tảng Đá đã được tác giả thổi hồn vào đó với từng tảng đá mặt hòn nào trông cũng “ngỗ ngược”, “nhăn nhúm”, “méo mó”. Rồi chúng còn vây lại thành một thạch trận giống như một trận đồ bát quái trên sông Đà.

Qua ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân, con sông với đầy sự hung bạo này chẳng khác gì kẻ thù số một của con người. Thế nhưng ngay sau đó, khi sự hung bạo đã trôi qua, nó lại hiện lên với một vẽ trữ tình, thơ mộng đến khó tin.

Nhìn từ trên máy bay xuống “con sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi mèo đốt nương xuân”. Với cách so sánh sông Đà “như một áng tóc trữ tình”, nhà văn đã khiến cho dòng sông hiện lên với vẻ kiều diễm của một người phụ nữ. Thông thường chữ “áng” hay được dùng để chỉ những tác phẩm nghệ thuật như áng văn, áng thơ, vậy mà ở đây Nguyễn Tuân đã dùng để chỉ sông Đà. Điều này có thể cho ta thấy trong suy nghĩ của tác giả, sông Đà như một tác phẩm nghệ thuật mà tạo hoá đã tạo ra. 

Sông Đà không chỉ đẹp ở cái dáng hình mà nó còn đẹp ở màu nước. Tác giả đã quan sát dòng sông vào những thời gian và không gian khác nhau. Vào mùa xuân thì dòng nước xanh ngọc bích, vừa trong xanh vừa óng ánh. Thu sang nước sông lại chín đỏ như da mặt người bầm đi vì say rượu. Bằng việc miêu tả chi tiết, cụ thể cùng với những so sánh độc đáo, đặc sắc sông Đà hiện lên vừa đẹp, vừa đa dạng.Qua đây ta cũng thấy được, khối tri thức rộng lớn và sự hiểu biết sâu rộng cũng như khả năng quan sát tinh tế của Nguyễn Tuân.

Bờ bãi sông Đà thì rộng lớn, mênh mang, trải dài “bờ sông Đà, bãi sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm sông Đà”. Câu văn được nhà văn ngắt thành nhiều đoạn đã tạo lên nhịp văn hối hả, mau lẹ. Rồi khi nhìn từ trên thuyền xuống, sông Đà mang một dáng vẻ “lặng tờ” và tĩnh lặng tuyệt đối. Sự tĩnh lặng của dòng sông như ẩn chứa một sức sống dạt dào. Nhà văn còn dùng những phép so sánh vô cùng gợi cảm khi miêu tả dòng sông Đà “bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử”, “bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”. Nhà văn đã sử dụng những khái niệm vô cùng trừu tượng để miêu tả vẻ đẹp cụ thể của sông Đà khiến con sông ấy hiện ra không chỉ là dòng sông của không gian mà nó còn là dòng sông của thời gian. Câu văn “thuyền tôi trôi trên sông Đà” đã gợi ra cái vẻ yên ắng, tĩnh lặng của sông Đà và sự thanh thản trong tâm hồn của con người. Giữa cái khung cảnh đầy thơ mộng ấy nhà văn đã nghe thấy một tiếng còi sương – tiếng còi xúp lê của chuyến tàu đường sắt Phú Thọ – Yên Bái – Lai Châu, đó chính là âm thanh của một cuộc sống hiện đại, đủ đầy. 

Có thể thấy những câu văn miêu tả vẻ đẹp trữ tình, đầy thơ mộng của sông Đà đã tạo lên một đoạn văn giàu chất thơ. Chất thơ ở cảnh sắc của con sông Đà, chất thơ của tâm hồn con người.

Bằng sự am hiểu sâu rộng cùng với tài năng miêu tả sắc sảo của mình, Nguyễn Tuân đã đưa người đọc đi từ sợ hãi này đến những bất ngờ khác khi miêu tả hai vẻ đẹp đối lập nhau của sông Đà vừa hung bạo vừa trữ tình.

Đọc tác phẩm “Người lái đò sông Đà” người ta càng thêm hiểu hơn lý do vì sao cái đẹp trong văn chương của Nguyễn Tuân được gọi là cái đẹp đạt đến độ hoàn thiện và hoàn mỹ. Tác phẩm một lần nữa đã khẳng định tài năng bậc thầy của nhà văn trong việc sử dụng ngôn từ, và còn giúp người đọc thấy được tình yêu quê hương, đất nước mà ông đã gửi gắm trong các tác phẩm của mình.

Phân tích tác phẩm người lái đò sông đà
Phân tích tác phẩm người lái đò sông đà

Phân tích tác phẩm người lái đò sông đà

(Bài văn mấu số 3)

“Người lái đò sông Đà” là một bút ký đặc sắc, là kết quả của chuyến thâm nhập thực tế vùng Tây Bắc của Nguyễn Tuân, và được in trong tập bút ký “Sông Đà”. Cảm hứng khi gắn bó với mảnh đất và con người Tây Bắc này đã in đậm trong hình ảnh của người lái đò nghệ sĩ và con sông Đà vừa hùng vĩ vừa nên thơ.

“Tây Bắc ư? Có riêng gì Tây Bắc.
Khi lòng ta đã hóa những con tàu
Khi Tổ quốc bốn bề lên tiếng hát
Tâm hồn ta là Tây Bắc chứ còn đâu.”

(trích Tiếng hát con tàu của Chế Lan Viên)

Trong những ngày tháng cả nước đang rộn ràng lên đường đi lên xây dựng và phát triển kinh tế ở vùng miền núi Tây Bắc, đã có biết bao nhà văn, nhà thơ thực hiện quá trình lột xác để đến với cách mạng. Một trong những nghệ sĩ yêu nước ấy đó chính là Nguyễn Tuân – cây độc huyền cầm của nền văn học Việt Nam, người đã mang lại rất nhiều những tờ hoa thơm thảo cho đời. Nguyễn Tuân đến với vùng núi Tây Bắc qua tùy bút “Người lái đò sông Đà” – một tác phẩm thể hiện rõ nét và sâu sắc về phong cách nghệ thuật độc đáo của ông.

Đối với Nguyễn Tuân khi đến với nghệ thuật là đến với sự tìm tòi và sáng tạo, bởi vì “nhà văn là người sáng tạo lại thế giới”. Nguyễn Tuân luôn sợ rằng mình của ngày hôm nay sẽ giống với mình của ngày hôm qua, sợ sự trùng lặp tầm thường. Chính vì thế nên ông đã lấy “chủ nghĩa xê dịch” làm đề tài sáng tác cho tác phẩm, làm mục đích cho cuộc đời mình. Sống là để đi, để đến những nơi xa, để tìm hiểu những điều mới lạ.

Trước cách mạng, Nguyễn Tuân một mình với chiếc vali,  đã bôn ba trên nhiều miền quê của đất nước nhưng với tâm trạng của một kẻ “thiếu quê hương”, bất mãn với cuộc đời. Đó cũng là tâm trạng chung của thời đại lúc bấy giờ. Sau cách mạng, ông cũng xuôi ngược ở nhiều nơi nhưng với tinh thần của một người yêu quê hương xứ sở, muốn góp phần vào công cuộc xây dựng của Tổ quốc.

Chính Nguyễn Tuân đã từng nói đến Tây Bắc là để “đi tìm cái thứ vàng mười của màu sắc sông núi Tây Bắc, và nhất là cái thứ vàng mười mang sẵn trong tâm trí tất cả những con người ngày nay đang nhiệt tình gắn bó với công cuộc xây dựng cho Tây Bắc thêm sáng sủa tươi vui và bền vững”. Với tình yêu quê hương tha thiết sâu nặng và bầu nhiệt huyết sôi nổi ấy, Nguyễn Tuân đã sử dụng linh hoạt, tinh vi vốn ngôn ngữ phong phú của mình để viết lên những tờ hoa thơm thảo về con người và thiên nhiên của miền sông núi này…

Tác giả thường hay đi tìm cảm giác mạnh cho các giác quan. Vì vậy, những lời văn của ông thường mang âm điệu của những trận cuồng phong, bão tố. Nhưng không vì thế mà chúng mất đi cái nét dịu hiền, đầy thơ mộng. Qua ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân, hình ảnh con sông Đà hiện lên vừa hung bạo nhưng cũng vừa trữ tình. Nó mang một tâm địa xảo quyệt của thứ kẻ thù số một, có thể cướp đi mạng sống của bất cứ ai, bất cứ kẻ nào lỡ sa chân vào “thạch trận”…Nước sông Đà đang reo như đun sôi lên một trăm độ…đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông” và khi thấy chiếc thuyền nào nhô vào thì chúng “nhổm cả dậy để vồ lấy”…

Nhưng cái vẻ hung hãn dữ tợn ấy vẫn không làm mất đi được cái nét trữ tình ở sông Đà. Khi miêu tả con sông ở những đoạn xuôi dòng, ngòi bút của Nguyễn Tuân bỗng trở lên mềm mại, uyển chuyển và mang đậm chất thơ. “Con sông Đà tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban, hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn khói núi Mèo đốt nương xuân”…

Cũng chính con sông ấy, ông lái đò xuất hiệnvới một hình ảnh dữ dội và phi thường. Trong cuộc chiến “một mất, một còn” với thác nước, tác giả  đã cho ta thấy được cái tài hoa và trí dũng tuyệt vời của người lái. Người lái đò sông Đà ấy là hiện thân của tác giả, ông cũng chỉ thích lao vào những cuộc chiến đấu đầy nguy hiểm với thác nước dữ dội mà không ưa xuôi thuyền trên dòng sông êm ả…

Giọng văn của Nguyễn Tuân thật tự nhiên và đầy vẻ phóng túng khi miêu tả hai trạng thái đối lập của cùng một sự vật. Dòng sông Đà vừa trữ tình lại vừa hung bạo, vừa là “kẻ thù”, lại vừa là “cố nhân”. Dưới ngòi bút tinh tế của tác giả, con sông không chết cứng mà nó còn vận động một cách mạnh mẽ, sôi nổi bằng những từ ngữ gợi hình ảnh, tác động mạnh mẽ vào giác quan người đọc.

Ông lái đò cũng như thế cũng xuất hiện một cách đầy sinh động, rõ nét và sắc sảo… Với Nguyễn Tuân, “đã là văn thì trước hết phải là văn”, văn phải đẹp, phải trau chuốt. Chính cái đẹp ấy đã chi phối cái cách nhìn của tác giả trên toàn bộ tác phẩm. Qua ngòi bút Nguyễn Tuân, con người và sự vật đều được khai thác trên phương tiện mĩ thuật và tài hoa nghệ sĩ.

Nét đẹp dòng sông Đà như là một công trình dày công sáng tạo của tạo hóa. Một vẻ đẹp vừa hùng vĩ vừa nên thơ, đẹp từ dáng dấp đến màu sắc. Cái áng tóc đẹp, đây trữ tình của người thiếu nữ ấy đã là nguồn cảm hứng cho biết bao nhà thơ, nhà văn. Nước của sông Đà cũng thế “Mùa xuân dòng xanh ngọc bích”, “Mùa thu nước sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bữa”.

Con sông ấy không chỉ đơn thuần chỉ là một cảnh đẹp của thiên nhiên mà nó còn  rất gợi cảm. Nó gây lên bao nỗi nhớ da diết cho những ai đã từng một lần đặt chân tới rồi lại đi xa. Gặp lại sông Đà, tác giả cảm thấy tâm hồn mình lâng lâng vui sướng như gặp lại một cố nhân. “Chao ôi, trông con sông, vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng”.

Và trong cái đẹp đẽ, đầy thơ mộng ấy của đất trời thiên nhiên, con người xuất hiện như một nghệ sĩ tài hoa. Ông lái đã điều khiển con thuyền một cách chủ động và vô cùng thuần thục. Ông bao giờ cũng đứng trên dòng thác sóng dữ dội ấy mà bắt chúng phải quy hàng. “Nắm chặt lấy được cái bờm sóng đúng luồng rồi, ông đò ghì cương lái, bám chắc lấy luồng nước đúng mà phóng nhanh vào cửa sinh, mà lái miết một đường chèo về phía cửa đá ấy”. Tác giả đã miêu tả hình ảnh ông lái đò điều khiển nó cứ như một nhạc sĩ đang kéo đàn violon.

“Người lái đò sông Đà” là một bước chuyển mình trong phong cách của Nguyễn Tuân. Trước cách mạng, ông thường hay đi tìm đề tài cho các tác phẩm bằng cách quay về với quá khứ, với một thời vang bóng đã qua. Nhân vật của Nguyễn Tuân là những Huấn Cao, là những quản ngục mang tâm trạng của kẻ “nào biết trên đầu có ai”. Nhân vật “vang bóng một thời” đó là những vị anh hùng ngang dọc, “khinh bạc đến điều”. Nhưng sau cách mạng, thì Nguyễn Tuân đã tìm thấy chất tài hoa nghệ sĩ nơi những con người lao động hết sức bình dị và gần gũi.

Huấn Cao giờ đây đã lùi vào dĩ vãng, giờ đây chỉ còn là một ông lái đò cả đời gắn bó với công việc, với cuộc sống. Hình ảnh ông lái lênh đênh trên mặt nước, chiến đấu với tử thần bằng một cây sào bé nhỏ gây lên bao xúc động trong lòng người đọc. Nguyễn Tuân đã trao tặng cho ông lái đò ấy chiếc huy chương anh hùng lao động trên ngực như một niềm hãnh diện thiêng liêng. Ông lái đã xuất hiện lên trước mắt chúng ta như một người nghệ sĩ tài hoa trí dũng song toàn. Miêu tả lại hình ảnh người đời thường lái đò, Nguyễn Tuân đã thể hiện mootj tấm lòng trân trọng, cảm phục những con người có công góp phần vào công cuộc xây dựng Tổ quốc.

Trong việc tái hiện lại hình ảnh của sông núi vùng Tây Bắc và người lái đò, Nguyễn Tuân đã tinh tế kết hợp nhiều phương tiện của nhiều ngành nghệ thuật như là: hội họa, điêu khắc, điện ảnh, âm nhạc… Mọi vật, mọi sự dường như hiện ra trước mắt chúng ta sừng sững và thật sinh động. “Ngoặt khúc sông lượn, thấy sóng bọt đã trắng xóa cả một chân trời đá”. Âm thanh của sóng vỗ vào đá, vào mạn thuyền, những làn sóng dậy lên thành thác núi, “một anh bạn quay phim táo tợn nào muốn…đã dũng cảm ngồi vào một cái thuyền thúng tròng trành” và rồi lao xuống “đáy hút sông Đà” để quay phim…

Tất cả những gì tác giả viết ra, những gì ông tưởng tượng và sáng tạo lên đều như được dựng lại trước mắt người đọc. Đọc tác phẩm Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân, ta như đang được đứng trước con sông ấy và chứng kiến cuộc vật lộn giữa ông lái với thác nước, chứng kiến từng đoạn sông đầy dữ tợn, lởm chởm những đá ngầm, đá nổi và cả những đoạn sông êm ả, trữ tình.

Trong tác phẩm, Nguyễn Tuân đã dùng cả những kiến thức về quân sự, võ học… Cuộc chiến đấu giữa người lái với thạch trận trên sông Đà đã diễn ra thật hấp dẫn và li kì: “Mặt nước hò la”, sóng nước “đá trái mà thúc gối vào bụng và hông thuyền”. Nó “bám lấy thuyền như đô vật túm thắt lưng ông đò đòi lật ngửa mình ra”… Tất cả những từ ngữ và hình ảnh đó mang đậm nét “quân sự, võ thuật” , nó như gợi lại trước mắt ta quang cảnh của một cuộc hỗn chiến đầy nguy hiểm, đầy hồi hộp hấp dẫn.

Nguyễn Tuân được mệnh danh là nhà văn của sự tài hoa và uyên bác. Nguồn tri thức khổng lồ và sự am hiểu của ông về lịch sử, khoa học, địa lí, sinh học… thường được tuôn trào trong các tác phẩm. Với “Người lái đò sông Đà”, ông đã đưa người đọc đến với một miền quê hương Tổ quốc. Vị trí sông Đà, lịch sử sông Đà được nhà văn Nguyễn Tuân giới thiệu bằng những trang viết đầy tính “uyên bác”. Nhiều địa danh được nhắc đến trong tác phẩm như Tà Mường Vát, Sơn La hay Hát Loóng… Tất cả chứng tỏ sự hiểu biết rất rộng và sâu của Nguyễn Tuân khi viết về sông Đà.

Khả năng diễn đạt cùng vốn ngôn ngữ của Nguyễn Tuân thật phong phú, đa dạng. Mỗi một từ ngữ trước khi đưa vào câu văn dường như đã được chắt lọc, gọt giũa vô cùng cẩn thận. Ông đã sáng tạo lên nhiều từ ngữ mới lạ và độc đáo. Giọng văn đôi khi có vẻ hơi thô kệch, dàn trải nhưng lại hết sức cô đúc và tự nhiên. Nguyễn Tuân không những viết lên những trang văn đầy tài sự hoa và lịch lãm mà ông còn sáng tạo lên những trang thơ cho đời. Đọc những dòng văn viết về con sông Đà đầy trữ tình, ta đã không khỏi ngỡ ngàng, ngạc nhiên trước cái giọng văn êm ái và dịu dàng như thơ của Nguyễn Tuân.

Viết về người lái đò sông Đà như viết về một vùng quê hương của Tổ quốc, Nguyễn Tuân đã thể hiện tình cảm yêu thương tha thiết đối với người dân lao động và thiên nhiên đất nước. Sông Đà càng đẹp, càng sinh động thì ông lái càng anh dũng và ngoan cường trong công việc, ta càng thấy được tấm lòng nhân đạo sâu sắc của tác giả – Người lao động trong tác phẩm .

Người lái thật bình dị từ công việc đến hình dáng và đến cả cách ăn nói. Nhưng ông ấy lại là một người anh hùng trước mắt Nguyễn Tuân. Nhà văn đã phát hiện ra trong cái con người bình dị ấy là chất nghệ sĩ tài hoa, dám anh dũng đương đầu với sóng to gió lớn để chèo chống con thuyền qua sông. Ông lái hiện lên trong tác phẩm là một người lao động hăng hái, hết mình vì công việc.

Cuộc sống quanh ta vốn dĩ đã rất tầm thường và cũ kĩ. Ngày qua ngày, thời gian vẫn trôi, mây vẫn bay và gió vẫn thổi…nhưng chính tác giả đã là người mang lại cho ta một thế giới mới, tinh khôi và kì diệu. Nguyễn Tuân cũng là một nhà văn, một người đã góp phần sáng tạo lại thế giới. Những tác phẩm của Nguyễn Tuân đã mang đến cho người đọc chúng ta một chân trời huyền bí riêng biệt, hấp dẫn và độc đáo. Đó chính là chân trời của cái đẹp, của sự tài hoa và uyên bác…

 

XEM THÊM:

PHÂN TÍCH BÀI ĐÀN GHITA CỦA LORCA
PHÂN TÍCH TÁC PHẨM SÓNG XUÂN QUỲNH
PHÂN TÍCH BÀI THƠ ĐÒ LÈN TÁC GIẢ NGUYỄN DUY

 

(Ôn thi THPT 2022) soạn văn chi tiết cho từng tác phẩm trong chương trình ngữ văn 12