Soạn văn phân tích ai đã đặt tên cho dòng sông

2537
phân tích ai đã đặt tên cho dòng sông
phân tích ai đã đặt tên cho dòng sông
3.7/5 - (3 bình chọn)

Tham khảo thêm:  Phân tích bài Ai đã đặt tên cho dòng sông

Lập dàn ý ai đã đặt tên cho dòng sông

1. Mở bài ai đã đặt tên cho dòng sông:

  • Giới thiệu sơ qua về tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường
  • Giới thiệu khái quát về tác phẩm Ai đã đặt tên cho dòng sông? (hoàn cảnh ra đời của tác phẩm, vị trí đoạn trích, khái quát nội dung và nghệ thuật).

2. Nội dung có trong thân bài

2.1. Hình ảnh về vẻ đẹp thiên nhiên của sông Hương

2.1.1. Vẻ đẹp của sông Hương nơi thượng nguồn:

  • Sông Hương như “một bản trường ca của rừng già”: “rầm rộ … hoa đỗ quyên rừng”, “rừng già đã … tự do và trong sáng”

=> Từ ngữ tạo hình, gợi tả vẻ đẹp của dòng sông Hương ở nơi thượng nguồn vừa hùng vĩ, man dại vừa trữ tình, say đắm lòng người.

  • Nhà văn đã rất khéo léo so sánh sông Hương với “cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại”, nhân hóa sông Hương thành một thực thể sống động và có hồn.
  • Một hình ảnh so sánh độc đáo “Sông Hương như người mẹ phú sa của một vùng văn hóa xứ sở”

2.1.2 Vẻ đẹp của sông Hương nơi ngoại vi thành phố:

  • Sông Hương trước khi chảy vào thành phố thì nó “nằm giữa cánh đầu châu hóa đầy hoa dại”
  • Vẻ đẹp mơ màng của sông Hương được miêu tả một cách rõ nét, có những đường cong mềm mại mà uyển chuyển quanh co uốn khúc quanh cố đô Huế.
  • Tác giả đã dành một tình yêu lớn cho dòng sông. Tình yêu ấy khiến ông mơ màng nhận ra hình dáng của dòng sông giống như tấm lụa trên cơ thể người thiếu nữ

2.1.3. Vẻ đẹp của sông Hương nơi trung tâm thành phố:

  • Nét đẹp của dòng sông khi chảy vào thành phố có nét khác biệt so với khi chảy ở vùng ngoại ô.
  • Dòng sông trở lên vui tươi hơn nhưng cũng rất êm dịu, như một điệu slow tình cảm của xứ Huế
  • Dòng sông như người con gái tinh tế đang đánh đàn trong đêm khuya

2.2. Vẻ đẹp lich sử, văn hóa của dòng sông Hương

2.2.1. Sông Hương – vẻ đẹp dòng sông lịch sử:

  • Tên của dòng sông được lưu danh trong cuốn “Dư địa chí” của Nguyễn Trãi
  • Sông Hương là một chứng nhân lịch sử của xứ Huế, của đất nước:
    • Là điểm tựa, bảo vệ biên cương đất nước thời Đại Việt.
    • Thế kỉ XVIII, vẻ vang soi bóng kinh thành Phú Xuân gắn với tên tuổi người anh hùng Nguyễn Huệ.
    • Nó đã đọng lại đến bầm da, tím máu, “nó sống hết lịch sử bi tráng của thể kỉ XIX”
    • Nó đã đi vào thời đại của cuộc cách mạng tháng Tám bằng những chiến công rung chuyển.
    • Nó chứng kiến cuộc tổng tiến công và nổi dậy vào mùa xuân năm 1968.

2.2.2. Sông Hương – vẻ đẹp dòng sông văn hóa:

  • Tác giả cho rằng đó là một dòng thơ ca về sông hương, đó là một dòng sông không bao giờ lặp lại mình.
  • Tác giả gắn sông Hương với nền âm nhạc cổ điển Huế.

2.3. Hình tượng cái tôi của tác giả trong bài

  • Quan sát dòng sông từ nhiều góc độ khác nhau, miêu tả dòng sông trên nhiều phương diện.
  • Là nhà văn có những liên tưởng, so sánh, độc đáo và lối viết tài hoa, uyên bác
  • Là cái tôi nghệ sĩ có tình yêu tha thiết, say đắm với vẻ đẹp thiên nhiên Huế và đất nước

3. Nội dùng phần kết bài

Cảm nhận về văn bản: Qua tác phẩm này ta cảm nhận được niềm tự hào và tình yêu tha thiết của tác giả với vẻ đẹp của thiên nhiên xứ Huế nói riêng và của đất nước nói chung

Sơ đồ tư duy ai đặt tên cho dòng sông

sơ đồ tư duy ai đặt tên cho dòng sông
Sơ đồ tư duy ai đặt tên cho dòng sông
sơ đồ tư duy bài ai đặt tên cho dòng sông
Sơ đồ tư duy bài ai đặt tên cho dòng sông

Bài văn mẫu phân tích bài ai đã đặt tên cho dòng sông hay

 

phân tích bài ai đã đặt tên cho dòng sông
Phân tích bài ai đã đặt tên cho dòng sông

Phân tích bài ai đã đặt tên cho dòng sông

(Bài văn mẫu số 1)

Trên khắp dải đất thân thương hình chữ S với ba miền: Bắc, Trung, Nam, vùng miền nào cũng đã từng để thương, để nhớ cho biết bao các nhà thơ, nhà văn có tâm hồn lãng mạn, bay bổng. Trong đó đặc biệt phải nói đến khúc giữa của dải đất này là miền Trung của xứ Huế mộng mơ.

Thiên nhiên, con người xứ Huế có lẽ luôn nổi bật với một nét đẹp nhẹ nhàng và mê đắm, nhưng mấy ai biết rằng, điều làm lên nét đẹp ấy chính là nhờ một phần vào nét đặc trưng của dòng sông Hương bao quanh thành phố xinh đẹp này. Hoàng Phủ Ngọc Tường với bài bút ký Ai đã đặt tên cho dòng sông là một tác phẩm viết rất hay, rất sâu sắc về dòng sông Hương biểu tượng cho thiên nhiên và con người xứ Huế.

“Ai đã đặt tên cho dòng sông” được in trong tập bút ký cùng tên, gồm có 8 bài được tác giả viết ngay sau chiến thắng mùa xuân năm 1975, khi mà cả nước đang tưng bừng xây dựng chủ nghĩa xã hội. Còn với Hoàng Phủ Ngọc Tường, lòng yêu nước và tinh thần dân tộc thường gắn với tình yêu thiên nhiên, yêu truyền thống văn hóa của dân tộc.

Sông Hương được nhà văn miêu tả với ba trạng thái ở ba khúc khác nhau: khi ở nơi thượng nguồn, rồi ở trong lòng và ngoại vi thành phố, thêm một chút đôi nét về văn hóa xứ sở. Với khúc thượng nguồn, Hương giang đã được nhà văn miêu tả với vẻ đẹp của một “cô gái Di gan phóng khoáng và man dại”, biện pháp nhân hóa này làm cho dòng sông hiện lên như là một cô gái đầy nữ tính, khi mãnh liệt, cháy bỏng, khi lại trầm mặc, êm đềm.

Hoàng Phủ Ngọc Tường nhìn dòng sông ấy dưới con mắt của “một kẻ si tình”, ông yêu, ông mến cái vẻ đẹp đầy man dại, độc đáo của dòng sông Hương. Dòng sông còn được nhà văn miêu tả như một bản trường ca của rừng già “Giữa rừng già, dòng sông là một bản trường ca, nó rầm rộ giữa những bóng cây đại ngàn, nó mãnh liệt vượt qua những ghềnh thác, rồi nó cuộn xoáy như cơn lốc vào đáy vực bí ẩn”.

Với mỗi một dòng sông, thượng nguồn là nơi mà nước chảy xiết nhất, mãnh liệt nhất, cho nên Hương giang cũng như vậy, nguồn nước của nó dồi dào, mạnh mẽ đủ để chảy vào để bao quanh cả thành phố Huế của nó. Vừa là bản trường ca của rừng già, sông Hương cũng là “một người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở”, chính nó đã cung cấp lượng phù sa giàu có cho người dân ở nơi đây, cho thiên nhiên xứ Huế.

Hoàng Phủ Ngọc Tường đã thể hiện được sự hiểu biết và gắn bó sâu sắc của mình với dòng sông nơi quê hương, bởi ông đã sinh ra và lớn lên tại thành phố này. Tình yêu dành cho xứ Huế thân thương này khiến cho cô gái ấy không muốn mở lòng mình ra, chỉ dành trọn tình yêu cho nơi đây mà trái tim nàng “đã đóng kín lại ở cửa rừng và ném chìa khóa trong những hang đá dưới chân núi Kim Phụng”

Vượt qua khúc thượng nguồn, sông Hương đã tìm về với thành phố thân yêu của nó. Đó như một sự tìm kiếm có ý thức “từ ngã ba tuần sông Hương theo hướng Nam Bắc qua điện Hòn Chén, vấp Ngọc Trản, nó chuyển hướng sang Tây Bắc, vòng qua thềm đất bãi Nguyệt Biều, Lương Quán rồi đột ngột vẽ một hình cung thật tròn về phía đông bắc, ôm lấy chân đồi Thiên Mụ, xuôi dần về Huế.”

Nó tìm về nơi mà nó thuộc về, cũng như dòng sông Seine của Pari hay sông Đa nuýp của Budapest chỉ chảy trong lòng của một thành phố duy nhất. Tâm trạng của người con gái mộng mơ như “vui tươi hẳn lên giữa những biền bãi xanh biếc” khi nó được gặp người tình của mình, chính là thành phố Huế xinh đẹp này. Về với miền đất quen thuộc, sôngHương được ví với “tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya”, khơi gợi lên một nét đẹp đặc trưng của cố đô Huế, đó là nhã nhạc cung đình Huế.

Làm sao người đọc có thể quên được những lời hát tình tứ, ngọt ngào, những điệu nhạc du dương vốn đã trở thành một nền văn hóa thi ca trên những con thuyền xuôi theo dòng Hương giang trong những đêm trăng sáng hờ hững, đầy thơ mộng. Chắc hẳn phải yêu thiên nhiên, yêu quê hương của mình lắm thì nhà văn mới có thể cảm nhận sâu sắc về dòng sông Hương đến như vậy. Hương giang nhảy “điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế”, nó muốn gắn chặt với nơi này lâu nhất có thể.

Nhưng dù có chậm rãi đến như thế nào thì cũng đến lúc phải từ biệt thành phố để tiếp tục thủy trình của mình. Hình ảnh chia tay của người con gái ấy được miêu tả với tâm trạng lưu luyến, bịn rịn: “Rời khỏi kinh thành, sông Hương chếch về hướng chính bắc, ôm lấy đảo Cồn Hến quanh năm mơ màng trong sương khói, đang xa dần thành phố để lưu luyến ra đi giữa màu xanh biếc của tre trúc và của những vườn cau vùng ngoại ô Vĩ Dạ.

“Cả một hành trình vượt bao gian nan để gặp được người tình của mình, Hương giang chẳng nỡ lìa xa tình yêu mãnh liệt của nó, cho nên nó đột ngột chuyển dòng, để được gặp lại thành phố một lần nữa ở thị trấn Bao Vinh xưa cổ. Tại đây, sông Hương nói lời thề của mình dành cho thành phố: ““Còn non, còn nước, còn dài, còn về, còn nhớ…”.

Lời tạm biệt của dòng sông với xứ Huế gợi lên cảnh chia ly của những đôi tình nhân, cũng bịn rịn, lưu luyến, thắm thiết không nỡ rời xa. Thương mến và giàu tình cảm đến như vậy, làm sao người đọc và thành phố này có thể quên đi người con gái thủy chung, son sắt ấy?

Cuối cùng, nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường đã miêu tả dòng sông Hương với vẻ đẹp gắn liền với những nét đẹp văn hóa của dân tộc. Sông Hương là dòng sông của lịch sử, nó đã cùng các vị vua Hùng trải qua thời kỳ khó khăn dựng nước và giữ nước, nó cũng là chứng nhân cho cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và Mĩ xâm lược, đặc biệt là sự kiện mùa Xuân Mậu Dần năm 1968.

Biết bao tội ác của quân thù được sông Hương nhớ mãi và găm vào trái tim mình. Cùng với đó là những hình ảnh anh dũng, bất khuất, kiên cường của cả dân tộc không thể nào quên. Dòng sông ấy vẫn cứ ở đó, trầm mặc khi bình thường và man dại khi cần thiết, vẫnsẽ tiếp tục theo chân thành phố và cả dân tộc trong những năm tháng tiếp theo của tương lai. Yêu biết bao vẻ đẹp của con sông trữ tình và đầy mộng mơ ấy!

Với bài bút ký Ai đã đặt tên cho dòng sông, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã làm hiện lên trước mắt người đọc hình ảnh của một dòng sông Hương với vẻ đẹp thật dịu dàng và đầy nữ tính, làm mê đắm không chỉ với người dân xứ Huế mà còn cả những người lữ khách đã từng đặt chân tới nơi đây. Đọc tác phẩm, người đọc chỉ muốn xách ba lô lên và đi ngay, để được thăm thú và ngắm nhìn vẻ đẹp người con gái tình tứ với quê hương, với xứ sở thân yêu của nó, cũng như lòng chung thủy bền vững sắt son của con người trong tình yêu.

Sông Hương khi chảy về thành phố nó có sức hấp dẫn tuyệt vời đối với người đọc. Ở đây chúng ta nhận ra một lối viết rất nhẹ nhàng, tinh tế và tài hoa của tác giả. Ông phác họa lên vẻ đẹp của sông Hương không chỉ bằng ngôn ngữ mà còn bằng cả trái tim đầy tình yêu thương. Giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại, sông Hương được tác giả nhân hóa như “cô gái đẹp ngủ mơ màng” – một vẻ đẹp mang đầy màu sắc của câu chuyện cổ tích tuyệt đẹp. Và sông Hương ấy bỗng “chuyển dòng liên tục” “ôm lấy chân đồi Thiên Mụ”, “trôi giữa hai dãy đồi sừng sững như thành quách”. Một sự diễn tả quá đỗi trữ tình, độc đáo khiến người đọc khó cưỡng lại được vẻ đẹp tuyệt vời này.

Sông Hương vừa mềm mại, lại vừa dịu dàng “mềm như tấm lụa”, “có khi  ánh lên những phản quang nhiều màu sắc sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”. Sự chuyển đổi màu sắc theo mùa, theo thời gian như thế này đã làm lên một nét đặc trưng cho những ai muốn ngắm nhìn dòng sông hương này thật lâu.

Hoàng Phủ Ngọc Tường miêu tả sông Hương như vẽ lên một bức tranh hoàn mĩ và tuyệt vời nhất về dòng sông huyền thoại này. Sông Hương tạo lên nét đẹp của cố đô Huế, ẩn mình trong trầm tích của nét văn hóa trải dài hàng nghìn năm lịch sử. Thú vị nhất là đoạn sông Hương chảy trong lòng thành phố Huế, tác giả cứ ngỡ rằng sông Hương đã tìm thấy chính mình khi gặp thành phố thân yêu nên tươi vui hẳn lên.

Vẻ đẹp của dòng sông này được nhà văn cảm nhận dưới nhiều góc độ khác nhau. Nhìn bằng con mắt của hội họa, sông Hương và những chi lưu của nó đã làm nên vẻ đẹp cổ kính của cố đô qua những đường nét thật tinh tế. Qua cách cảm nhận âm nhạc thì sông Hương như điệu slow chậm rãi sâu lắng, trữ tình…Một vẻ đẹp khiến người khác phải ngỡ ngàng và đắm say chẳng thể nào dứt ra.

Sông Hương còn là chứng nhân lịch sử, là “người” đã chứng kiến sự đổi thay của cố đô Huế từng ngày. Trong sách Dư địa chí  viết “dòng sông viễn châu đã chiến đấu oanh liệt bảo vệ biên giới phía nam của tổ quốc đại việt qua những thế kỉ trung đại, vẻ vang soi bóng kinh thành Phú Xuân của anh hùng Nguyễn Huệ…”

Có thể nói rằng để cảm nhận được dòng sông Hương với nhiều góc độ, nhiều vẻ đẹp khác nhau, Hoàng Phủ Ngọc Tường phải có một trái tim nhạy cảm, yêu thương tha thiết với dòng sông thơ mộng này. Một lối viết giản dị, nhẹ nhàng nhưng đầy lôi cuốn đã khiến độc giả không thể để đứt mạch cảm xúc. Tác giả đã phát huy được nét đặc trưng của thể loại bút kí đầy sắc bén và tình cảm này.

“Ai đã đặt tên cho dòng sông” thực sự là một bài bút ký độc đáo. Sông Hương đã hiện lên với tất cả những vẻ đẹp mà nó mang.

phân tích ai đã đặt tên cho dòng sông
Phân tích ai đã đặt tên cho dòng sông

Phân tích ai đã đặt tên cho dòng sông

(Bài văn mẫu số 2)

Hoàng Phủ Ngọc Tường không phải là một nhà văn gốc Huế, ông vốn là người gốc Quảng Trị, nhưng từ khi sinh ra ông đã ở Huế và cho đến tận cuối đời ông vẫn gắn bó với mảnh đất Huế thân thương này. Có lẽ cũng chính vì thế mà nhà văn đã có một tình yêu và sự nghiên cứu rất sâu sắc về văn hóa cũng như lịch sử, địa lý của xứ Huế, là cơ sở vững chắc để ông viết được bài tùy bút này xuất sắc đến vậy.

Nhà văn luôn sáng tác với một phong cách nghệ thuật riêng biệt, những tác phẩm của ông luôn mang một sức liên tưởng dồi dào, với lối hành văn mê đắm, hài hòa, có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa cái chất trữ tình và trí tuệ, giữa nghị luận sắc bén và niềm suy tư đa chiều. Chính những đặc điểm ấy của nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường mà nền văn học Việt Nam mới có được những trang bút ký tuyệt vời và có giá trị sâu sắc cho đến tận ngày hôm nay.

Tác phẩm Ai đã đặt tên cho dòng sông được viết vào ngày 4 tháng 1 năm 1981, tại Huế và được in trong tập sách cùng tên, bài bút ký gồm có ba phần, đoạn trích mà chúng ta được học nằm ở phần mở đầu, chủ yếu là nói về vẻ đẹp thơ mộng trữ tình của dòng sông Hương lững lỡ giữa trời Huế mộng mơ.

Hoàng Phủ Ngọc Tường đã viết những trang bút ký này với tất cả tình yêu thương cùng cảm xúc dâng trào của mình trong nỗi niềm với Huế. Hình ảnh sông Hương hiện lên như hình ảnh của một cô gái Huế xinh đẹp, diễm tình với mái tóc đen dài như suối, tính cách thì mang đầy màu sắc mới mẻ, có cá tính lúc mạnh lúc dịu dàng uyển chuyển.

Mở đầu, dưới sự am hiểu sâu sắc về địa lý, tác giả đã đem đến cho người đọc, người nghe cái vẻ đẹp của cảnh sắc thiên nhiên đa dạng phong phú cùng sức quyến rũ của dòng sông nơi đây. Sông Hương được nhìn nhận trên vẻ đẹp về cảnh quan địa lý của xứ Huế và ngược lại vẻ xinh đẹp của thiên nhiên ở hai bên bờ sông cũng được dòng sông nâng lên làm nổi bật hẳn, giữa chúng là sự tương hỗ, phụ trợ cho nhau để tạo lên một vẻ đẹp rất Huế, rất thơ mộng.

Sông Hương chảy qua ba đoạn lớn đó là đoạn chảy giữa lòng Trường Sơn, chảy ở ngoại vi thành phố Huế và cuối cùng là chảy qua thành phố cũng chính lúc này mà dòng sông Hương đã in bóng cái vẻ đẹp tuyệt mỹ của kinh thành Phú Xuân.

Sông Hương trong không gian của núi rừng Trường Sơn, in bóng những vẻ đẹp mà nơi đây đã tạo lên, đã góp phần hình thành lên dòng sông xinh đẹp. Và để làm rõ hơn về điều này tác giả đã đưa vào bài bút ký ba hình ảnh nhân hóa và so sánh đặc biệt ấn tượng, “sông Hương như một bản trường ca của rừng già”, hình ảnh so sánh này hết sức độc đáo và mới lạ, cho thấy được cái cá tính của tác giả trong việc liên tưởng rất phong phú, mạnh mẽ mang đậm chất Hoàng Phủ Ngọc Tường.

Sông Hương mang cái khí chất hào hùng, dài bất tận, nằm giữa lòng Trường Sơn với hình ảnh vừa hùng vĩ vừa hùng tráng, cũng rất đỗi trữ tình. Tất cả được thể hiện trong cái nhịp chảy của nó “rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn”, “cuộn xoáy như những cơn lốc”, “mãnh liệt qua những ghềnh thác” tác giả đã sử dụng những động từ mạnh để nhấn mạnh cái hùng tráng của dòng sông.

Không chỉ thế dòng sông lại cũng chẳng kém phần thơ mộng trữ tình khi chảy qua “những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng” và giữa cái cảnh sắc ấy dòng sông lại mang thêm những phẩm chất khác hẳn “dịu dàng và say đắm”. Cả dòng sông tồn tại như một sinh thể sống động mang những nét tính cách đối lập nhau nhưng vẫn rất hài hòa tạo lên một vẻ đẹp đa dạng phong phú và một sức sống mãnh liệt.

Nhưng chưa dừng lại ở đó, nhà văn tự cảm thấy vẫn chưa lột tả hết được cái vẻ đẹp, cái tính cách của dòng sông ở đoạn này, nên ông đã dùng tiếp một hình ảnh nhân hóa đầy tính sáng tạo, tác giả so sánh dòng sông Hương giống như “một cô gái Digan phóng khoáng và man dại”, giống như một bộ tộc sống du mục, tự do mạnh mẽ và có phần hoang dại, làm người đọc liên tưởng đến những cô gái với vũ khúc tình tứ, cháy bỏng, say mê lòng người.

Dòng sông qua miêu tả của tác giả trở đã trở lên có cá tính và tâm hồn khoáng đạt, chính rừng già đã hun đúc cho nó có một bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng. Cái cá tính và tâm hồn ấy lại chính là thứ mà dòng sông này muốn giấu đi và ẩn mình trong núi ngàn sâu thẳm, ngay khi đi ra khỏi rừng già, nó đã lập tức kết thúc cái phần đời hùng tráng ấy tại cửa rừng và ném chìa khóa vào trong lòng sâu của vực thẳm dưới núi Kim Phụng.

Việc Hoàng Phủ Ngọc Tường tìm đến được vùng thượng nguồn của con sông, nói lên cái sự kỳ công, lòng khám phá không ngừng nghỉ, cái sự tinh tế trong cảm nhận của nhà văn, thể hiện được cái quá trình lao động nghệ thuật công phu và khó nhọc của tác giả.

Ngay sau khi ra khỏi rừng già sông Hương đã vặn mình và khoác lên một tấm áo với một nét đẹp hoàn toàn mới lạ, khiến cho chúng ta có chút ngỡ ngàng, bối rối. Tác giả đã so sánh vẻ đẹp của sông Hương như “người mẹ phù sa của vùng văn hóa xứ sở”, mang trong mình một vẻ đẹp dịu dàng đầy trí tuệ và nuôi dưỡng những đứa con xứ Huế, bồi đắp lên nền văn hóa hai bên bờ sông cho cố đô bằng dòng phù sa ngọt ngào và ấm áp.

Sự lặng lẽ chảy, lặng lẽ cống hiến bồi đắp phù sa để hình thành lên nền văn hóa rực rỡ ấy, giống như một người mẹ hiền lúc nào cũng âm thầm hi sinh ,chịu đựng tất cả vì những đứa con thân yêu của mình, người mẹ ấy chẳng bao giờ đòi hỏi gì, chỉ mong sao những  đứa con của mình khôn lớn, nay mai tỏa khắp phương trời. Đến đây nhà văn đã thực sự thành công khi biến một dòng sông vốn vô tri vô giác, nay đã trở thành một sinh thể có hồn, có cảm xúc, có cá tính và biết hi sinh như một con người thực thụ, để lại cho người đọc người nghe một ấn tượng vô cùng sâu sắc về dòng sông.

Hết phần chảy ở giữa lòng Trường Sơn, sông Hương bắt đầu một giai đoạn mới trong cuộc đời mình ở vùng ngoại vi kinh thành Huế, đi qua Châu Hóa một vùng đầy hoa dại, hết sức lãng mạn và thi vị. Mang vẻ đẹp của “người con gái đẹp”, trong cảm nhận của nhà văn cô gái ấy dường như đang nằm ngủ mơ màng, thì người tình mong đợi đến và đánh thức. Sở dĩ tác giả có liên tưởng như vậy là bởi khúc này của dòng sông nước chảy rất êm đềm.

Hành trình trở về xuôi, hành trình chảy ra cửa biển Thuận An của dòng sông Hương giờ đây giống như một cuộc tìm kiếm có ý thức, tìm kiếm người tình trong mộng của mình. Thế nên đoạn chảy này được tác giả so sánh như một cuộc tìm kiếm và đuổi bắt, hào hoa và đầy đam mê. Đây là hành trình của những người yêu nhau đang tìm về với nhau, là hành trình của một nàng công chúa đi tìm chàng hoàng tử trong mơ.

Dòng sông mang trong mình đầy đủ những sức sống, vóc dáng mới, luân chuyển dòng một cách liên tục, “vòng giữa những khúc quanh đột ngột, uốn mình theo những đường cong thật mềm”. Tác giả ngắm nhìn dòng sông mà tưởng tượng đến hình ảnh “người gái đẹp” đang phô ra những đường cong quyến rũ đầy hấp dẫn của mình, đây là một dòng liên tưởng đầy sáng tạo và mạnh mẽ của nhà văn.

Sông Hương khi đi qua vùng Châu Hóa không chỉ mang nét đẹp mềm mại quyến rũ của người con gái mà nó còn mang những vẻ đẹp rất đa dạng và phong phú. “Có khi sắc nước trở nên xanh thẳm”, “mềm như tấm lụa”, một vẻ đẹp mềm mại và yên bình đến thế. Rồi khi dòng sông đi qua những ngọn đồi, mặt nước phản quang thành những mảng màu sắc rực rỡ, “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”, thật kỳ thú và dòng sông Hương lúc này như một bức tranh nhiệm màu, đặc sắc vô cùng.

Khi sông Hương đi qua những lăng tẩm thì lại trở ên trầm mặc, và cổ thi, tạo cảm giác như nó đang chiêm nghiệm, thành kính, suy nghĩ về lịch sử của những ông hoàng bà chúa thời xa xưa đã từng huy hoàng như thế nào, và rồi dòng sông Hương bỗng bừng sáng, trẻ trung hơn hẳn khi nghe thấy âm thanh của thành phố.

Cuối cùng tác giả đem đến cảnh sông Hương nằm trọn trong vòng tay của kinh thành Huế như một người con gái đang e ấp trong vòng tay của người mình thương, và lúc chuẩn bị rời xa người yêu. Nhà văn thật tài tình, tinh tế khi sáng tác ra những hình ảnh độc đáo “chiếc cầu trắng của thành phố in ngần trên nền trời, nhỏ nhắn như vành trăng non”, gợi ra một mối tình mới chớm nở của người con gái Huế. Rồi thì “dòng sông mềm hẳn đi như tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu”, như tấm lòng thẹn thùng, bẽn lẽn của cô gái xứ Huế trong tình yêu đầu đời.

Nhà văn so sánh sông Hương như một điệu “slow” của xứ Huế, chậm rãi, êm ả như một “mặt hồ yên tĩnh”, “điệu chảy lặng lờ của nó ngang qua thành phố… Đấy là điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế”, những câu văn mang theo âm nhạc chậm chạp hòa vào lòng người đọc, nhẹ nhàng, du dương, mềm mại, một sự liên tưởng đầy thi vị, lãng mạn. Không dừng lại ở đó, nhà văn lại tiếp tục có những liên tưởng mới hết sức thú vị “sông Nêva cuốn trôi những phiến băng lô xô”, “mỗi phiến băng chở một con hải âu nghịch ngợm đứng co lên một chân, thích thú với chiếc thuyền xinh đẹp của chúng”.

Tác giả muốn hóa thân mình thành con chim hải âu trôi nhanh ra biển trên chiếc tàu thủy tinh ấy, rồi cuối cùng lại chẳng kịp nói lời tạm biệt với lũ bạn trên bờ vì tàu trôi đi nhanh quá, thế tác giả mới thấm thía nhớ về dòng sông Hương và “chợt thấy quý cái điệu chảy lặng lờ của nó khi đi qua thành phố”. Kiểu chảy lững lờ ấy khiến ta liên tưởng đến một cô gái, thẹn thùng, bẽn lẽn nửa muốn đi, nửa lại muốn ở, chẳng nỡ rời xa vòng tay yêu dấu của người mình thương, lòng đầy vấn vương. Với lối viết sinh động và sáng tạo, tác giả đã biến dòng sông Hương thành một “nàng thơ” vừa cá tính lại vừa e ấp, dịu dàng đắm mình trong tình yêu lứa đôi cùng chàng trai xứ Huế mộng mơ.

Hơn thế nữa sông Hương còn là một nhân chứng cho lịch sử, chứng kiến biết bao thăng trầm hưng thịnh của nơi cố đô “vẻ vang soi bóng kinh thành Phú Xuân”, những dấu ấn, những sự kiện không bao giờ có thể lãng quên của dân tộc Việt Nam ta, đều được sông Hương ghi lòng tạc dạ. Sông Hương chính là biểu tượng đẹp đẽ nhất xây dựng cho Huế một hình ảnh xinh đẹp đầy thơ mộng, suốt mấy nghìn năm văn hiến của đất nước. Một vẻ đẹp lặng lẽ, ẩn sâu trong đó là nét cá tính, sông Hương đã có từ rất lâu nhưng nó chưa bao giờ già cỗi, nó vẫn luôn mang trong mình nhiệt huyết yêu đương của cô gái đang độ xuân thì.

Bằng óc sáng tạo, sự liên tưởng tài tình, quan sát tỉ mỉ, tinh tế và sự hiểu biết tinh tường về các kiến thức xã hội, văn hóa của xứ Huế, nhà văn Hoàng phủ Ngọc Tường đã cho ra đời một tác phẩm bút ký đặc sắc, như họa vào lòng người đọc người nghe một bức tranh xứ Huế và sông Hương tuyệt đẹp, vẻ đẹp vừa gần gũi, lại vừa thiêng liêng, nhưng cũng rất dịu dàng e lệ. Tất cả như hướng độc giả đến cái khao khát, mong muốn một lần được về thăm Huế, được đứng trên cây cầu Tràng Tiền vắt ngang sông Hương mà chiêm ngưỡng dòng sông cho thỏa nỗi lòng.

phan tich ai đặt tên cho dòng sông
Phan tich ai đặt tên cho dòng sông

Phân tich ai đặt tên cho dòng sông

(Bài văn mẫu phân tích số 3)

Nếu người Hà Nội tự hào về con sông Hồng đỏ nặng phù sa, thì người Huế cũng tự hào khi có dòng sông Hương đầy thơ mộng chảy qua thành phố Huế cổ kính với những lăng tẩm, đền đài. Con sông ấy đã chứng kiến biết bao đổi thay của lịch sử, sự thăng trầm của cuộc sống. Dòng nước của nó đã tưới mát cho cảnh vật cũng như con người nơi xứ Huế này. Nó mang đặc trưng của xứ Huế là niềm tự hào kiêu hãnh của những con người nơi đây. Có lẽ cũng chính vì điều đó mà sông Hương cũng đã đi vào thơ ca, nhạc họa rất trữ tình và sâu lắng. Hoàng Phủ Ngọc Tường, một người con của xứ Huế đã bao lần ngắm con sông Hương rồi bất chợt một lần thắc mắc, ai đã đặt tên cho con sông này là sông Hương nhỉ? Nỗi băn khoăn ấy đã được ông thế hiện trong tùy bút Ai đã đặt tên cho dòng sông. Bằng ngòi bút trữ tình sâu lắng, thể hiện rõ phong cách thể loại của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Tác phẩm đã thể hiện sự uyên bác tài hoa của chủ thể sáng tạo trong cái nhìn liên tưởng cùng với những triết lý sâu sắc về quan hệ giữa dòng sông và lịch sử, dòng sông với thi ca nhạc họa và dòng sông với người dân xứ Huế.

 

Mở đầu tác giả đã giới thiệu sự độc đáo, đặc biệt và đầy ấn tượng của con sông Hương. Nó là con sông duy nhất của thành phố này. Trước khi về tới vùng châu thổ êm đềm, con sông thơ mộng ấy đã phải vượt qua bao thác ghềnh cuộn xoáy. Mang tính lưỡng thể, dòng sông Hương ấy vừa hùng vĩ như một bản trường ca của rừng già, rầm rộ trong bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác cuộn xoáy như cơn lốc vào nơi đáy vực thẳm, thế nhưng cũng có nhiều lúc dòng sông trở lên dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng. Màu xanh của nước sông cùng với sắc đỏ chói lọi của hoa đỗ quyên như hòa vào nhau, những bông hoa đỏ rực ấy như đang nghiêng mình soi bóng dưới dòng nước trong xanh của dòng sông, cảnh đẹp và nên thơ. Sông Hương không đơn thuần chỉ là dòng sông nữa khi được tác giả liên tưởng nó như một cô gái Di-gan phóng khoáng khi nó ở giữa lòng núi rừng Trường Sơn, có lẽ núi rừng nơi đây đã hun đúc cho nó một bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng. Một sự liên tưởng vô cùng độc đáo và táo bạo với cách so sánh mạnh mẽ và đầy bất ngờ. Ở đây, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã xem dòng sông như một nhân vật trữ tình khiến cho chúng ta cảm nhận được rằng sông Hương có sức sống mãnh liệt, mang nét hoang dại nhưng dịu dàng và say đắm. Thoát khỏi khu rừng già, sông Hương đã nhanh chóng khoác cho mình một vẻ đẹp khác, một sắc đẹp dịu dàng trí tuệ, trở thành người mẹ phù sa của cả một vùng văn hóa xứ sở. Dòng chảy của sông Hương ở đầu là một cuộc hành trình gian truân không kém phần kì lạ và bí mật, vì nó đã đóng kín cửa rừng và ném chìa khóa vào trong những hang đá dưới chân núi Kim Phượng.

 

Dường như có sự gặp gỡ định mệnh giữa Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường, khi cả hai miêu tả con sông đều xem nó như một chủ thể trữ tình. Nguyễn Tuân khi miêu tả sông Đà,  ông đã viết như “oán trách… như van xin… như khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo, có lúc như tiếng của hàng ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa đổ lửa”… Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng thế, ông thật tài hoa khi miêu tả sông Hương đã không ngần ngại sử dụng bút pháp nghệ thuật ẩn dụ, so sánh, liên tưởng và nhân hóa để nói về vẻ đẹp lưỡng thể đầy tính nhân văn của dòng sông Hương giữa đại ngàn Trường Sơn. Tác giả đã nhắc khẽ mọi người rằng nếu chỉ mãi ngắm nhìn khuôn mặt kinh thành sẽ không hiểu một cách đầy đủ bản chất của dòng sông Hương với cuộc chiến tranh đầy gian truân mà nó đã vượt qua… suy tưởng ấy đã làm cho những liên tưởng mà tác giả nhắc đến thêm phần rung động thấm thía.

 

Vượt qua cánh đồng Châu Hóa đầy cỏ dại kia, sông Hương như một người con gái đang ngủ mơ màng và được đánh thức bởi người tình mong đợi. Sông Hương đã chuyển dòng một cách bất ngờ khi vừa ra khỏi rừng. Nó như đang rất nôn nóng đi tới gặp người tình – thành phố tương lai của nó. Nó đã uốn mình vòng những khúc đột ngột theo những đường cong thật mềm… Con sông như được nhân hóa như đang làm duyên, làm dáng, đang múa lượn hát ca. Sông Hương lúc thì chảy theo hướng nam bắc theo điệu Hòn Chén, vấp phải Ngọc Trản, lúc thì lại chuyển sang hướng sang tây bắc vòng qua bãi Nguyệt Biểu, Lương Quán. Rồi nó đột ngột đi về phía đông bắc vẽ một hình cung thật tròn ôm lấy chân đồi Thiên Mụ xuôi dần về Huế. Dòng chảy của sông Hương qua các địa danh ngã ba Tuần, bãi Lương Biểu, điện Hòn Chén, Ngọc Trản, Vọng Cảnh, Lương Quán, Tam Thai, Lưu Bảo… được tác giả vẽ ra và nhắc lại một cách chính xác về kiến thức địa lí, văn hóa tinh tường. Người đọc nhiều lúc còn cứ ngỡ ông là người nhiều năm tháng đi du ngoạn ngược xuôi với con thuyền nhỏ bồng bềnh trên dòng sông Hương thơ mộng.

 

Ông yêu dòng sông này – dòng sông quê mẹ, ông biết rõ dáng hình và những đường nét uốn lượn của nó. Cũng như nhà thơ Tố Hữu đã cảm mến thốt lên Hương Giang ơi, qua tim ta vẫn ngày đêm tự tình. Ông nói về sắc nước của dòng sông là xanh thẳm dáng hình của nó mềm như một tấm lụa, sự tấp nập rộn ràng của nó là những chiếc thuyền xuôi ngược chỉ bé bằng những con thoi. Ông chìm đắm vào niềm say mê thưởng thức gương sông lấp lánh sớm xanh trưa vàng, chiều tím dưới ánh phản quang nhiều màu sắc của nền trời Tây Nam thành Huế.

Giữa đám quần sơn lô xô, giữa những lăng tẩm đồ sộ, giữa những rừng thông u tịch, sông Hương mang một vẻ đẹp trầm mặc, như triết lí, như cổ thi… tác giả nhắc lại một vần thơ cổ gợi lên không khí, khung cảnh u tịch và trầm mặc của những rừng thông, của dòng sông Hương, những thành quách và những đồi núi lô xô ở đây. Ai đã từng một lần tới thăm thú Khiêm Lãng (lăng vua Tự Đức) mới cảm nhận được cái vẻ đẹp của cảnh vật mà tác giả nói đến:

Bốn bề núi phủ mây phong

Mảnh trăng thiên cổ, bóng tùng vạn niên

Sắp đến thành phố mến thương, mặt nước sông Hương trở lên mơ màng, phẳng lặng trong tiếng chuông ngân nga của chùa Thiên Mụ, giữa bát ngát tiếng gà của những xóm làng.

Một lần nữa chúng ta được thưởng thức một đoạn tùy bút mà chất thơ lai láng, bồi hồi.  Tác giả thật tài tình khi vận dụng những liên tưởng và suy tưởng, những so sánh và nhân hóa, những kiến thức về địa lí, về văn hóa và về thi ca một cách tài hoa khi nói về vẻ đẹp quyến rũ của sông Hương đoạn từ ngã ba Tuần đến chân đồi Thiên Mụ. Khi tới vùng ngoại ô Kim Long, giữa những bãi biển xanh biếc, sông Hương như vui tươi hẳn lên khi nó nhìn thấy chiếc cầu trắng của thành phố in trên bầu trời, nhỏ nhắn như những vành trăng non. Cồn Giã Viên và cồn Hến ở đầu và cuối thành phố giống như hai cù lao xanh đã làm cho dòng sông Hương uốn cong và mềm hẳn đi như một tiếng vâng không nói ra của tình yêu. Tác giả đã liên tưởng đến sông Xen của Pa-ri, sông Đa-núp của Bu-đa-pét, để nói lên vẻ đẹp độc đáo của dòng sông Hương là nó nằm ngay giữa lòng thành phố yêu quý của mình, nó đã cho Huế trong tổng thể vẫn giữ nguyên dạng của một đô thị cổ, trải dọc hai sông. Những nhánh sông đào mang nước của dòng sông tỏa đi khắp đô thị, những cây đa, cây dừa cổ thụ, những ánh lửa chài lập lòe chập chờn nơi xóm thuyền xúm xít trong đêm sương… đã làm cho cố đô Huế trở lên như một linh hồn mô tê xưa mà không một thành phố hiện đại nào còn nhìn thấy được.

 

Lần thứ hai, Hoàng Phủ Ngọc Tường liên tưởng và so sánh về lưu tốc của sông Nê-va nơi thành phố Lê-nin-grat nước Nga với dòng sông Hương. Hình ảnh chú chim hải âu co một chân đậu trên chiếc thuyền băng lướt qua cung điện Pê-téc-bua như một khám phá ngộ nghĩnh. Tác giả đã mơ ước được hóa thân thành một con chim nhỏ co một chân trên con tàu thủy tinh để đi ra biển. Sông Hương khi gặp kinh thành xưa, hai hòn đảo Giã Viên và cồn Hến đã làm nó trôi đi chậm, thật chậm, cơ hồ chỉ còn là một mặt hồ yên tĩnh.

Nhìn những dòng nước chảy, tác giả nhắc lại tiếng khóc của nhà triết học Hi Lạp hơn hai ngàn năm về trước để nói lên suy nghĩ dòng chảy của cuộc đời, về sự biến chuyển không ngừng của vạn vật. Rồi ông lại nghĩ về điệu chảy lặng lờ của dòng sông Hương, thật quý trọng coi đó là điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế. Hình ảnh hàng trăm nghìn ánh hoa đăng bồng bềnh trên mặt nước vào những đêm hội rằm tháng Bảy từ điện Hòn Chén trôi về và sự ngập ngừng, e ấp như muốn đi muốn ở như những vấn vương của nỗi lòng đã nói lên vẻ mộng mơ của sông Hương – bài thơ trữ tình của cố đô Huế.

Sự ngập ngừng vấn vương ấy chính là vẻ đẹp của Hương Giang mà nhiều nhà thơ đã cảm nhận, trong đó nhà thơ Thu Bồn đã có lần rung cảm:

Con sông dùng dằng, con sông không chảy

Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu.

Hoàng Phủ Ngọc Tường đã gieo chữ vào những vườn hoa, những cánh đồng màu mỡ trong đó mỗi phép nhân hóa , so sánh và liên tưởng về dòng sông Hương đi qua xứ Huế tựa như hoa thơm trái ngọt đã thể hiện một bút lực tinh tế và tầm cao trí tuệ của nhà văn sở trường về bút kí, tùy bút. Ông dã dành cho dòng sông Hương cả một tấm lòng yêu mến và quý trọng đặc biệt.

 

Đoạn nói về sông Hương khi rời khỏi kinh thành ra đi được Hoàng Phủ Ngọc Tường diễn tả bằng một ngòi bút nghệ thuật hết sức hào hoa phong tình. Ông đã sử dụng phép nhân hóa biến sông Hương thành một người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya, họ biết nhạc cổ điển Huế đã được sinh ra trên mặt nước Hương Giang. Ông cho hay, nhà thi hào Nguyễn Du đã từng ôm ấp một phiến trăng sầu trong bao năm lênh đênh trên dòng sông Hương.  Hương Giang rời khỏi kinh thành lưu luyến ra đi giữa màu xanh biếc của tre trúc và của những vườn cau ở vùng ngoại ô Vĩ Dạ, rồi nó lại đổi dòng một cách đột ngột gặp lại thành phố lần cuối ở góc thị trấn Bảo Vinh xưa cổ như sực nhớ  ra một điều gì chưa kịp nói, phải chăng khúc lượn này, sông Hương có cái gì đó rất lạ với tự nhiên và rất giống con người. Tác giả cho rằng đó chính là nỗi vương vấn, còn cả một chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu. Và ông cũng so sánh sông Hương với nàng Kiều trong đêm tình tự, ông dẫn buông hai câu thơ của nhà thơ Nguyễn Du để nói lên sự lưu luyến chí tình với lời thề trước khi về biển cả. Thật không có sự so sánh nào hay hơn khi nói về dòng sông mang tình người, tình son sắt thủy chung của lứa đôi, “Còn non, còn nước, còn dài, còn về, còn nhớ…” lời thề của lứa đôi, lời thề của dòng sông đã trở thành giọng hò dân gian quen thuộc của xứ Huế. Sâu xa hơn nữa, lời thề ấy còn là tấm lòng người dân Châu Hóa xưa mãi mãi chung tình với quê hương xứ sở thân thương.

 

Đến với xứ Huế mộng mơ là đến với dòng sông Hương, đến với tiếng chuông chùa Thiên Mụ đến với tiếng gà Bảo Vinh, là đến với những lăng tẩm đế vương, đến với con người thủy chung trọn tình trọn nghĩa và đến với lời ca điệu hò giang dịu ngọt.Tác giả của bài tùy bút Ai đã đặt tên cho dòng sông? Đã thay lòng ta nói lên những tình cảm sâu sắc tốt đẹp ấy.

Bài tùy bút đã thể hiện một bút pháp nghệ thuật vô cùng độc đáo, tài hoa và phong tình của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Tác giả đã tạo lên một chất thơ quyến rũ làm say lòng người. Những tri thức về văn hóa, thi ca, âm nhạc, về địa lí của ông đã chung đúc thành trang văn tuyệt bút.

 

Tham khảo các tác phẩm khác:

PHÂN TÍCH BÀI NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ

SOẠN VĂN 12 BÀI ĐÀN GHITA CỦA LORCA

SOẠN VĂN LỚP 12 BÀI SÓNG

Bài phân tích tất cả các tác phẩm văn học lớp 12 TẠI ĐÂY