Tổng quát nội dung có trong bài viết
Tham khảo thêm:
- Chi tiết: Soạn bài tuyên ngôn độc lập
1. Tóm tắt tuyên ngôn độc lập
Vào ngày 2/9/1945 Bác Hồ đã đọc bản Tuyên ngôn độc lập và từ đó khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa. Đây là mốc son chói lọi trong lịch sử đánh dấu một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên của độc lập, tự do cho dân tộc Việt Nam. Văn bản Tuyên ngôn độc lập đã được Bác viết cho ai? Người viết mục đích hướng tới “đồng bào cả nước”, những con người hơn 80 năm qua rên xiết ở dưới ách xâm lược của thực Pháp và của phát xít Nhật. Không chỉ có thế đối tượng của bản Tuyên ngôn độc lập còn là các nước thực dân đi xâm lược, những thế lực thù địch đang có dã tâm cướp nước ta lần nữa, đặc biệt đó chính là thực dân Pháp và đế quốc Mỹ đồng thời bản tuyên ngon của Người còn hướng đến toàn thể nhân dân ở trên toàn thế giới. Bác Hồ viết như thế nào? Người đã đưa ra cơ sở lý luận và cơ sở thực tế dùng cho bản Tuyên ngôn của dân tộc Việt Nam. Trước hết đó là về cơ sở lí luận đã được Bách trích dẫn về quyền bình đẳng, quyền tự do, quyền sống, quyền mưu cầu được hạnh phúc trong bản Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ năm 1776, bản Tuyên ngôn về Nhân quyền và Dân quyền năm 1791 của nước Pháp. Về cơ sở thực tiễn Bác đã tố cáo tội ác của thực dân Pháp đã gây ra cho dân tộc chúng ta trong hơn 80 năm qua. Từ đó đã đập tan những luận điệu xảo trá và bẻ gãy ngọn cờ “bảo hộ” của chúng. Cuối cùng Bác viết bản tuyên ngôn để làm gì? Mục đích cao cả nhất và lớn lao nhất của bản Tuyên ngôn độc lập đó là: tuyên bố xóa bỏ toàn bộ chế độ thực dân phong kiến, đồng thời khẳng định quyền tự chủ và vị thế bình đẳng của dân tộc ta đối với toàn thế giới và khẳng định sự quyết tâm bảo vệ nền độc lập của dân tộc ta bằng toàn bộ “tinh thần và lực lượng, tính mạng của cải”. Bản Tuyên ngôn độc lập đã hội tụ được vẻ đẹp tư tưởng và tình cảm của Chủ tịch Hồ Chí Minh đồng thời cũng cho thấy khát vọng cháy bỏng về mong muốn độc lập, tự do của nhân dân Việt Nam.
2. Soạn bài tuyên ngôn độc lập dàn ý chi tiết
2.1. Dàn ý nội dung mở bài tuyên ngôn độc lập
- Giới thiệu chung về tác giả Hồ Chí Minh về cuộc đời, sự nghiệp cách mạng và sự nghiệp văn chương.
- Giới thiệu khái quát về tác phẩm: hoàn cảnh sáng tác, ý nghĩa lịch sử và giá trị văn học của bản Tuyên ngôn độc lập.
2.2. Dàn ý nội dung thân bài
Trình bày khái quát về bố cục của tác phẩm: gồm 3 phần được sắp xếp một cách chặt chẽ và logic.
Phần 1. Cơ sở pháp lý của bản Tuyên ngôn độc lập
Trích dẫn hai bản tuyên ngôn của Pháp và Mỹ làm cơ sở pháp lý cho Tuyên ngôn độc lập của Việt Nam:
- “Tất cả mọi người … quyền mưu cầu hạnh phúc” Trích trong bản Tuyên ngôn độc lập của Mỹ vào năm 1776.
- “Người ta sinh ra tự do … bình đẳng về quyền lợi.” Trích trong bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp năm 1791.
Ý nghĩa:
- Hồ Chí Minh tôn trọng và đã sử dụng hai bản tuyên ngôn có giá trị, được thế giới công nhận để làm cơ sở pháp lý không thể chối cãi.
- Dùng phương pháp lí luận “gậy ông đập lưng ông”: lấy tuyên ngôn của Pháp để phản bác lại và ngăn chặn âm mưu tái xâm lược của chúng.
- Đặt cuộc cách mạng và giá trị bản tuyên ngôn của nước ta ngang hàng với hai cường quốc Mỹ và Pháp, thể hiện lòng tự tôn dân tộc.
- Lập luận chặt chẽ và sáng tạo: từ quyền con người (tự do, bình đẳng và quyền mưu cầu hạnh phúc), “nâng tầm lên” là quyền tự do bình đẳng của mọi dân tộc trên thế giới.
Phần 2. Cơ sở thực tiễn của bản Tuyên ngôn độc lập
Những dẫn chứng về tội ác của thực dân Pháp:
- Vạch trần sự thật về bản chất công cuộc “khai hóa” của thực dân Pháp: thực chất chúng đã thi hành nhiều chính sách dã man, tàn bạo về chính trị, văn hóa – xã hội – giáo dục và kinh tế.
- Vạch trần sự thật về bản chất công cuộc “bảo hộ” của thực dân Pháp: hai lần chúng bán nước ta cho Nhật (vào năm 1940, 1945), đã khiến cho “hơn hai triệu đồng bào ta bị chết đói”…
- Làm chứng tỏ luận điệu xảo trá, lên án tội ác của chúng: là kẻ phản bội Đồng minh, không những không hợp tác với Việt Minh mà còn thẳng tay khủng bố Việt Minh…
- Biện pháp nghệ thuật: Điệp cấu trúc “chúng + hành động”: để nhấn mạnh tội ác của Pháp.
Cuộc đấu tranh chính nghĩa của dân ta:
- Nhân dân ta đã chống lại ách nô lệ hơn 80 năm, đứng về phía Đồng minh để chống phát xít, kêu gọi Pháp chống phát xít Nhật, lấy lại nước từ tay Nhật.
- Kết quả: cùng lúc đã phá tan 3 xiềng xích đang trói buộc dân tộc ta (Pháp chạy, Nhật đầu hàng, vua Bảo Đại thoái vị), thành lập lên nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.
Phần 3. Lời khẳng định. Tuyên bố độc lập của dân tộc ta và ý chí bảo vệ chủ quyền
- Dùng từ ngữ mang ý nghĩa phủ định để tuyên bố thoát ly hẳn quan hệ với thực dân Pháp, xóa bỏ mọi hiệp ước đã được ký kết, mọi đặc quyền của Pháp tại Việt Nam.
- Kêu gọi toàn dân đoàn kết đứng lên chống lại âm mưu của thực dân, kêu gọi thế giới công nhận quyền tự do, độc lập của chúng ta.
- Tuyên bố về nền độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam với toàn thế giới: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do… ”. Thể hiện lòng quyết tâm đoàn kết giữ vững chủ quyền, bảo vệ nền hòa bình và độc lập của toàn dân Việt Nam.
- Lời văn đanh thép, rõ ràng như một lời thề, một lời khích lệ tinh thần yêu nước nhân dân cả nước.
2.3. Phần nội dung trong kết bài tuyên ngôn độc lập
Khái quát về giá trị nghệ thuật: tác phẩm là áng văn chính luận mẫu mực với lập luận chặt chẽ, lí lẽ thuyết phục, dẫn chứng cụ thể xác thực, ngôn ngữ hùng hồn, gần gũi và giàu tính biểu cảm.
Khái quát về giá trị nội dung của bản tuyên ngôn độc lập (giá trị văn học, giá trị lịch sử): đã nêu cao truyền thống yêu nước, ý chí quyết tâm chống quân xâm lược, lòng tự hào dân tộc, đánh dấu mốc son trong lịch sử của dân tộc ta.
3. Sơ đồ tư duy tuyên ngôn độc lập lớp 12
Các bài văn mẫu phân tích tác phẩm “Tuyên ngôn độc lập – Hồ Chí Minh” hay nhất
SOẠN BÀI TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP – HỒ CHÍ MINH
(bài văn mẫu số 1)
Trong số những tác phẩm của Hồ Chí Minh có những kiệt tác sánh ngang với các thiên cổ hùng văn của dân tộc thì Tuyên ngôn Độc lập chính là tác phẩm tiêu biểu nhất. Tác phẩm có một giọng văn hùng hồn thống thiết, có lập luận chặt chẽ sắc bén, mang tính thuyết phục cao đối với người đọc và người nghe- Bản Tuyên ngôn Độc lập là kết quả của biết bao nhiêu máu đã đổ, bao nhiêu tính mạng của những con người anh hùng Việt Nam đã hi sinh trong nhà tù, trong trại tập trung, trong những hải đảo xa xôi, trên chiến trường, trên máy chém… “Bản tuyên ngôn Độc lập” là kết quả của bao niềm hi vọng, sự tin tưởng của hơn hai mươi triệu nhân dân Việt Nam.
Mở đầu Tuyên ngôn Độc lập tác giả đã nêu thẳng vấn đề. Người nêu lên những căn cứ pháp lý, “những lẽ phải không ai chối cãi được”. Từ hai bản tuyên ngôn nổi tiếng của Pháp và Mĩ, Bác đã rút ra những câu tuyên bố nổi tiếng, hùng hồn . Bản Tuyên ngôn Độc lập của nước Mỹ năm 1776: “Tất cả mọi người đều sinh ra đều… mưu cầu hạnh phúc”. Để làm nổi bật hơn tính phổ biến của những lẽ phải, Người còn nêu ra những lời được viết trong Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Pháp năm 1791: “Người ta sinh ra… về quyền lợi”.
Cách nêu ra dẫn chứng như thế vừa khéo léo lại vừa kiên quyết. Khéo léo là vì tỏ ra tôn trọng chân lí chung dù chân lí ấy của các nước đang là kẻ thù đưa ra. Bên cạnh đó nó cũng hàm chứa một sự phê phán. Thực dân Pháp và đế quốc Mĩ là những kẻ xâm lược đã chà đạp lên chân lý, chà đạp lên lương tâm và lý tưởng của cha ông chúng. Đó là “gậy ông đập lưng ông”, là cách dùng lí lẽ của kẻ thù để chống lại kẻ thù. Hai bản tuyên ngôn của Pháp và Mĩ đều nhấn mạnh về quyền con người, nhưng ở đây Bác đã mở rộng hơn mà nói thêm về quyền dân tộc. Câu nói của Người đã mở đầu cho trào lưu giải phóng dân tộc trên khắp thế giới. Đồng thời, đã đưa Bản tuyên ngôn của nước ta sánh ngang hàng với hai bản tuyên ngôn đã nêu.
Bác lập luận như vậy chính là để kết tội thực dân Pháp. Những lời bất hủ trong hai bản tuyên ngôn đó đã trở thành cơ sở pháp lý để Bác kết tội thực dân Pháp. “Thế mà đã hơn 80 năm nay, bọn thực dân Pháp… nhân đạo và chính nghĩa” Sau khi kết thúc một cách khai quát những tội ác của thực dân Pháp, bản tuyên ngôn đã nêu lên những dẫn chứng cụ thể để lật chiếc mặt nạ “bảo hộ” của thực dân Pháp trước toàn thể nhân loại: “Về chính trị, chúng tuyệt đối không cho nhân dân… dân chủ nào”. Lời kể tội của tác giả mang chất giọng hùng hồn và đanh thép. Cách lập luận trùng điệp những cụm từ như: “Chúng thi hành…”, “Chúng lập ra…”. “Chúng thẳng tay chém giết…” đã thể hiện được những tội ác chồng chất của thực dân Pháp đối với nhân dân ta. Cách dùng hình ảnh của tác giả đã làm nổi bật lên sự tàn bạo của thực dân Pháp: “Chúng thẳng tay chém giết những người yêu nước… chúng tắm các cuộc… những bể máu”.
Bác cũng kết tội thực dân Pháp về mặt kinh tế từ khái quát đến cụ thể “Chúng bóc lột dân ta đến xương tủy… tiêu điều”. Bác còn quan tâm đến cả những hạng người như: “dân cày và dân buôn trở nên bần cùng”, “chúng không cho các nhà tư sản ta ngóc đầu lên”. Lập luận như vậy là Bác muốn kêu gọi sự ủng hộ của khối đại đoàn kết toàn dân trong công cuộc bảo vệ nền Độc lập. Cả đoạn văn tác giả chỉ dùng một chủ ngữ duy nhất là “chúng” để chỉ thực dân Pháp, nhưng vị ngữ thì lại luôn thay đổi: “thi hành”, “lập ra”, “thẳng tay chém giết”, “tắm”… chỉ một kẻ thù là thực dân Pháp nhưng tội ác mà chúng đã gây ra trên đất nước ta vô cùng nhiều. Cách lập lụân chặt chẽ, đanh thép cùng với những dẫn chứng cụ thể xác thực khiến kẻ thù hết đường lẩn tránh tội ác.
Tội ác lớn nhất mà thực dân Pháp đã gây ra đó là nạn đói khủng khiếp năm 1945: “Mùa thu năm 1940, phát xít Nhật đến xâm lăng Đông Dương để mở thêm căm cứ đánh đồng minh thì thực dân Pháp quỳ gối đầu hàng, mở cửa nước ta rước Nhật. Từ đó, nhân dân ta chịu hai tầng xiềng xích: Pháp và Nhật. Từ đó, nhân dân ta càng cực khổ, nghèo nàn. Kết quả là cuối năm ngoái sang đầu năm nay, từ Quảng Trị đến Bắc Kì hơn 2 triệu đồng bào ta chết đói”.Tác giả cũng không quên kể đến những tội ác khác của bọn thực dân Pháp như “trong năm năm chúng bán nước ta hai lần cho Nhật”, tội thẳng tay khủng bố Việt Minh còn hơn nữa, tội “giết nốt số đông tù chính trị ở Yên Bái và Cao Bằng” .Người kết tội thực dân Pháp một cách hùng hồn và đanh thép như vậy là nhằm phơi bày bản chất tàn bạo, dã man, ác độc của thực dân Pháp, lột bỏ mặt nạ “khai hoá”, “bảo hộ” của chúng trước nhân dân toàn thế giới, khơi dậy lòng căm thù của nhân dân ta với thực dân Pháp.
Tác giả biếu dương sức mạnh của dân tộc trong công cuộc chống thực dân phong kiến và giành lại nền Độc lập “Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị…chế độ dân chủ cộng hoà”. Đoạn văn này diễn tả với đầy hào khí. Chỉ với 9 chữ “Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị”, Bác đã dựng lại cả một giai đoạn lịch sử đầy biến động, hào hùng và cực kì oanh liệt của dân tộc ta. Biểu dương truyền thống kiên cường bất khuất của dân tộc, đồng thời tác giả còn nhằm thúc đẩy tinh thần tự hào dân tộc, kích thích ý chí chiến đấu mãnh liệt để nhân dân ta quyết tâm chống lại âm mưu của thực dân Pháp.Tiếp theo, Người nêu lên cơ sở chính nghĩa của việc thành lập nước Việt Nam mới. Việt Minh là một tổ chức cách mạng của toàn dân tộc Việt Nam. Việt minh đã đứng về phía phe đồng minh, đã đứng lên chống lại thực dân Pháp và phát xít Nhật và đã giành lại chính quyền từ tay Nhật. Hai lần Người nhấn mạnh nền Độc lập của đất nước bằng những câu văn điệp ngữ vô cùng mạnh mẽ: “Sự thật là…”.
Trên cơ sở ấy, Người đã tuyên bố thành lập lên nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, “tuyên bố thoát ly hẳn quan hệ với thực dân Pháp, xoá bỏ hết những hiệp ước đã ký kết… trên đất nước Việt Nam”. Cuối cùng thay mặt cho cả một dân tộc đã vừa giành được tự do độc lập. Người đã nêu lời thề “quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do Độc lập ấy”- Tuyên ngôn Độc lập là một kiệt tác của Hồ Chí Minh. Bằng cả tâm huyết và tài hoa, Người đã thể hiện được khí phách anh hùng của một dân tộc đang vùng dậy để chống đế quốc, thực dân phong kiến, giành lại Độc lập tự do cho nước nhà. Với Tuyên ngôn Độc lập, Việt Nam lần đầu tiên hiện diện trên trường quốc tế với tư cách là một nước tự do và Độc lập và nhân dân trên thế giới cũng thấy được tinh thần, ý chí quyết tâm bảo vệ nền Độc lập của dân tộc Việt Nam.
Tuyên ngôn Độc lập trước hết là một văn kiện lịch sử có giá trị to lớn. Nó là bản văn quan trọng bậc nhất của nước Việt Nam ta. Để có được Tuyên ngôn Độc lập, bao đồng bào, đồng chí đã ngã xuống, hy sinh trong suốt 80 năm kháng chiến chống Pháp. Tuyên ngôn Độc lập là một cột mốc lịch sử quan trọng, nó chấm dứt giai đoạn mất nước, giai đoạn nhân dân ta phải sống kiếp ngựa trâu, nô lệ của dân tộc, nó đã mở đầu một kỷ nguyên mới, một kỷ nguyên Độc lập tự do.
Với một hệ thống lập luận chặt chẽ, lí lẽ sắc bén cùng giọng văn hùng hồn, thống thiết, bản Tuyên ngôn Độc lập của nước ta xứng đáng sánh ngang với các bản tuyên ngôn khác trên thế giới và các thiên cổ hùng văn của các dân tộc như Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi hay Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn.
Soạn bài phân tích nội dung của bản tuyên ngôn độc lập
(bài văn mẫu số 2)
Độc lập, tự do là ước mơ, là khao khát của biết bao người, bao thế hệ, biết bao dân tộc. “Tuyên ngôn độc lập” đã thực hiện được khát khao, niềm ước mơ từ ngàn đời nay ấy và trở thành một bản hùng văn hùng tráng của dân tộc Việt Nam ta.
Phần đầu tác phẩm nêu lên những chân lý về nhân quyền, dân quyền và cơ sở pháp lý của bản Tuyên ngôn độc lập. Tác giả đã trích dẫn lời của hai bản Tuyên ngôn nổi tiếng thế giới đó là bản Tuyên ngôn độc lập của Mỹ vào năm 1776 và bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp năm 1791 là có dụng ý sâu sắc. Lời lẽ của hai bản Tuyên ngôn đó đã nêu lên những chân lý, đó là kết quả của cuộc cách mạng có tính chất tiên phong của những nước có tầm ảnh hưởng lớn trên thế giới, vì vậy không ai có thể phủ nhận tính đúng đắn của chúng. Ngoài cách đưa ra dẫn chứng một cách sâu sắc thì Hồ Chí Minh còn sử dụng những lý lẽ sắc bén cùng những suy luận logic vô cùng thuyết phục. “Suy rộng ra câu ấy có nghĩa là: Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. Người đã mở rộng, phát triển từ khái niệm con người sang khái niệm dân tộc một cách khôn khéo và đầy tính thuyết phục. Điều đáng nói hơn nữa là ngay ở trong đoạn đầu này, cũng chính là lời trích dẫn trong bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp đã tỏa ra sức chiến đấu vô cùng mạnh mẽ và tiềm tàng của hành động trái ngược hẳn: “Thế mà hơn 80 năm nay, bọn thực dân Pháp lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái, đến cướp đất nước ta, áp bức đồng bào ta”. Rõ ràng qua cách lập luận như thế, một sự thật được phơi bày, vạch trần bộ mặt gian xảo, dối trá của thực dân Pháp, bản chất của chúng ở Việt Nam trái hẳn với nhân đạo và chính nghĩa. Kết thúc phần này là một câu khẳng định chắc nịch, ngắn gọn nhưng đầy sức thuyết phục: “Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được”.
Mở rộng hơn, phần thứ hai Bác đã liệt kê ngắn gọn và đầy đủ những tội ác, những hành động tàn bạo mà thực dân Pháp đã gây ra trên đất nước ta trong suốt gần một trăm năm đô hộ. Trước tiên, chúng đã tước đoạt tự do về chính trị, “tuyệt đối không cho nhân dân ta một chút tự do dân chủ nào”. Tiếp đó là “chúng thi hành những luật pháp dã man, ngăn cản việc thống nhất nước nhà của ta, để ngăn cản dân tộc ta đoàn kết…” Cả đoạn dày đặc là những câu liệt kê định tội rắn rỏi, tố cáo toàn diện những tội ác của bọn cướp nước. Từng câu, từng chữ đã vạch trần bản chất xấu xa, độc ác của bọn xâm lược. Thực dân Pháp đã cho thi hành chính sách ngu dân, tiêu diệt văn hoá, điều chúng muốn chính là diệt trừ tận gốc bản sắc dân tộc, ý thức lịch sử và truyền thống dân tộc của ta bằng cách “lập ra nhà tù nhiều hơn trường học”. Chúng đã thẳng tay đàn áp và chém giết dã man những người yêu nước, “tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong những bể máu”, cướp đoạt trắng trợn và bất công với quyền thiêng liêng nhất của con người đó chính là “quyền được sống”. Đó thực chất là khai hóa, cái gọi là đem văn minh đến cho người bản xứ ngu muội. Chúng còn “bóc lột dân ta đến xương tuỷ, khiến cho… cướp không ruộng đất, hầm mỏ, nguyên liệu…chúng đặt ra hàng trăm thứ thuế vô lý, làm cho dân ta trở nên bần cùng… chúng bóc lột công nhân ta một cách vô cùng tàn nhẫn”, những hành động của chúng thật hết sức vô nhân đạo và phi nghĩa. Hơn nữa, khi bị Nhật tước đi khí giới, chúng đã bỏ chạy, đầu hàng và “bán nước ta hai lần cho Nhật”. Đó là bộ mặt thật về bản chất bảo hộ của chúng, sự thật lịch sử đã tố cáo bản chất dối trá và hèn nhát của bọn xâm lược.
Chỉ trong một đoạn ngắn với hai mươi mốt câu, tác giả đã lật tẩy, vạch trần được chiêu bài “khai hoá, bảo hộ” bịp bợm, giả dối mà bấy lâu thực dân Pháp dùng để che đậy những việc xấu xa độc ác mà chúng đã làm. Tác giả đã liên tiếp dùng những từ chỉ sắc thái cao độ: dã man, tuyệt đối không cho, thẳng tay chém giết, tắm, bóc lột đến tận xương tủy, tắm, trong những bể máu,… ngôn ngữ linh hoạt, sắc bén, hình ảnh đầy cụ thể, chính xác, gợi tả và tỏ thái độ căm giận, phẫn uất sâu sắc trước những tội ác man rợ đó. Điệp từ “chúng” lặp lại nhiều lần, xuất hiện với tần suất dày đặc được lồng trong những câu song hành, đồng nghĩa, như những nhát búa đập thẳng vào lớp vỏ bọc đầy hoa mĩ mà bọn thực dân vẫn tuôn ra bấy lâu, tạo lên những âm vang sóng dội, nhấn mạnh, như khắc sâu ghi nhớ, như kết án luận tội và đồng thời tỏ ra sức mạnh của dân tộc chúng ta, sức mạnh của chính nghĩa. Đối lập với những hành động phi nghĩa đó của bọn thực dân Pháp là cuộc đấu tranh đầy nhân đạo chính nghĩa của nhân dân ta. Từ những hành động tàn độc của thực dân Pháp như khủng bố Việt Minh giết chính trị phạm, tác giả đã dẫn dắt chúng ta đến những hành động nhân đạo, sự khoan hồng của quân và dân ta “giúp cho nhiều người Pháp chạy qua biên thuỳ, lại cứu cho nhiều người Pháp ra khỏi nhà giam Nhật và bảo vệ tính mạng và tài sản cho họ” Sự thật đã khẳng định chiến thắng của nhân dân ta: “Sự thật là dân ta lấy lại nước Việt Nam từ tay Nhật”, đất nước mà thực dân Pháp đã cướp lấy rồi đem bán cho phát xít Nhật. Chúng ta đã chiến đấu chống phát xít, đứng về phía mặt trận dân chủ để chống phát xít, có được vai trò và vị trí xứng đáng trước thế giới chính là do sức mạnh tự chủ tự thân của dân tộc. Chính vì vậy các nước tiến bộ trên thế giới phải đồng tình và ủng hộ quyền được hưởng tự do độc lập của dân tộc ta một cách chính đáng. Câu tuyên bố “Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị” ngắn gọn nhưng đầy súc tích, nghe như một lời reo vui. Câu này cũng có thể làm một ví dụ tiêu biểu cho văn phong của Bác là ngắn gọn, chuẩn xác mà đầy uy lực và giàu ý nghĩa. Tuyên bố với toàn thế giới về việc thành lập một đất nước mới, một đất nước đã phải chịu nhiều đau thương, tác giả đã rất đanh thép và triệt để khi dùng những cụm từ như “thoát ly hẳn, xóa bỏ hết, xóa bỏ tất cả” như để nhấn mạnh sự phủ định chính thức, tuyệt đối mọi quan hệ lệ thuộc với Pháp, chặt bỏ nốt những mắt xích cuối cùng ràng buộc Việt Nam, để đất nước này có thể đứng lên trong tự do độc lập, xây dựng một chế độ mới.
Tự do vừa giành được thật là điều vô giá. Để có được nó, nhân dân ta đã phải đánh đổi bằng bao nhiêu sự hy sinh, mất mát, đau thương; bao nhiêu xương máu và tâm huyết. Thế nhưng còn bao nhiêu thù trong giặc ngoài lúc bấy giờ đang lăm le, âm mưu bóp chết sự sống mới hình thành của nước Việt Nam non trẻ. Hiểu được điều đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt toàn thể nhân dân để nêu lên lời tuyên bố trịnh trọng và quyết liệt: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do độc lập và sự thật đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy”. Đó chính là tinh thần, là ý chí của cả một dân tộc anh hùng quyết hy sinh tất cả để gìn giữ độc lập, tự do. Cụm từ tự do và độc lập được lặp đi lặp lại ba lần, như khắc sâu vào tâm trí của muôn triệu người dân Việt, vang lên mạnh mẽ và rung động như tiếng kèn tiếng trống xung trận hào hùng. Lời tuyên bố ấy như một lời thề sắt đá và thiêng liêng, như khích lệ nhân dân ta và cảnh báo kẻ thù.
Đây là bản Tuyên ngôn độc lập đầu tiên tuyên bố với toàn thế giới về sự ra đời của một nhà nước mới, một kỷ nguyên mới, một kỷ nguyên độc lập tự do cho một dân tộc anh hùng, bất khuất kiên cường. Nó cũng đánh dấu thắng lợi đầu tiên của một nước ở châu Á. Mặt khác, bản Tuyên ngôn ấy còn là một áng văn chính luận mẫu mực, hùng hồn, đanh thép và lôi cuốn ở những lý lẽ và lập luận chặt chẽ, ở từng từ ngữ, hình ảnh đa cảm, dẫn chứng cụ thể, chính xác, ở từng câu văn gọn mà sắc, giản dị mà hùng hồn, đã vừa vạch mặt vừa cảnh cáo kẻ thù, vừa khích lệ, động viên tinh thần của nhân dân và tranh thủ sự đồng tình quốc tế.
Có thể khẳng định rằng, bản “Tuyên ngôn độc lập” của Chủ tịch Hồ Chí Minh vừa kế thừa được những chân lý chung của lịch sử dân tộc và thế giới vừa mang tính thời đại. Bản tuyên ngôn này mãi mãi là áng văn bất hủ, là niềm tự hào của mỗi người dân Việt Nam yêu nước.
Phân tích tuyên ngôn độc lập lớp 12
(phân tích tuyên ngôn độc lập lớp 12 – mẫu số 3)
Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là một nhà cách mạng vĩ đại mà Người còn là một cây bút nghệ thuật đầy tài hoa của dân tộc. Thơ văn của Bác vừa mang sắc thái cổ điển vừa mang sắc thái hiện đại, đầy sáng tạo và mang những giá trị tư tưởng cao. Nếu trong thơ trữ tình, ta thường bắt gặp những lời thơ tràn ngập niềm lạc quan với tinh thần đầy tự do, phóng khoáng thì trong văn học chính luận ta sẽ thấy những áng văn đầy khúc chiết, chặt chẽ và có sức lay động mạnh mẽ tới tâm hồn của người đọc, người nghe. Tuyên ngôn độc lập là một kiệt tác chính luận đầy mẫu mực của Bác, nó chứa đựng tình cảm thiết tha, những tư tưởng mang tầm thời đại và kết tinh vẻ đẹp thuần túy của dân tộc Việt Nam.
Năm 1945, cuộc cách mạng tháng Tám thành công, đất nước ta bước vào kỷ nguyên mới, một kỷ nguyên của độc lập, tự do nhưng vẫn phải đứng trước bao thách thức với cảnh “ngàn cân treo sợi tóc” khi bọn đế quốc và thực dân lợi dụng danh nghĩa quân của Đồng minh để âm mưu cướp nước ta một lần nữa. Chính trong thời điểm ấy, vào ngày 2 / 9 / 1945 trên Quảng Trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản tuyên ngôn độc lập, từ đó khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa. Đây là bản tuyên ngôn viết cho toàn thể nhân dân Việt Nam, nhân dân trên thế giới và công luận Quốc tế.
“Hỡi đồng bào cả nước, Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”.
“… Người ta sinh ra ra đều tự do và bình đẳng về quyền lợi và phải luôn luôn bình đẳng về quyền lợi”.
Hai bản tuyên ngôn độc lập của Mỹ vào năm 1976 và bản tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Pháp vào năm 1971 đã được Bác trích dẫn một cách đầy khéo léo. Đây là hai văn kiện mang tầm vóc thế giới, khi mà thực tế lịch sử đã chứng minh rằng quyền con người là vô cùng quan trọng. Đó là những chân lý mang giá trị to lớn. Bác đã rất khôn khéo khi sử dụng nghệ thuật tâm lý “gậy ông đập lưng ông”. Âm mưu của Mĩ và Pháp đã bị ngăn chặn lại bởi chính những tuyên ngôn, lời răn dạy của tổ tiên chúng. Nếu chúng dám xâm phạm quyền tự do, độc lập của dân tộc ta thì chính là đang đi ngược lại với đạo lý mà chúng đã đặt ra. “Đó là một lời lẽ không ai có thể chối cãi được”, Bác đã khẳng định chắc nịch , kiên quyết về lập trường chính nghĩa của dân tộc ta. Đồng thời khi trích dẫn những lời trong hai bản tuyên ngôn này, Bác đã cho thấy sự khéo léo và kiên quyết khi tỏ ra rất trân trọng những tuyên ngôn bất hủ đồng thời cũng dùng chính lí lẽ của chúng để ngăn chặn âm mưu xâm lược của Đế quốc. Đồng thời, Bác đã đặt ba bản tuyên ngôn cũng như ba cuộc cách mạng ngang hàng nhau, mang tầm vóc thế giới. Như một nguồn sức mạnh lớn lao cổ vũ các nước thuộc địa đứng lên chống lại thực dân trên thế giới, bằng sự cảm quan đầy tỉnh táo và sáng suốt, Bác đã đưa ra những lập luận chặt chẽ, lí lẽ sắc bén, tinh nhạy và chứa đựng một tình cảm lớn lao đối với nhân dân.
Sau cơ sở pháp lý, Bác đã đưa ra cơ sở thực tế của bản tuyên ngôn, những sự thật lịch sử, những bằng chứng sống qua 80 năm đấu tranh của nhân dân cả nước. Những lí lẽ đó mang tính thuyết phục hơn cả vì nó được thực tế chứng minh, được nhân dân chứng kiến và tham gia, bởi vậy nó đã làm lay động hàng triệu trái tim con người trên thế giới. Lời lẽ tố cáo ấy đầy căm phẫn và xót xa:
“Thế mà hơn 80 năm nay, bọn thực dân Pháp lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái, đến cướp đất nước ta, áp bức đồng bào ta. Hành động của chúng trái hẳn với nhân đạo và chính nghĩa”.
Đời sống nhân dân đầy khổ cực, đất nước lầm than, hàng triệu người chết vì nạn đói, rồi bao nhiêu chồng mất vợ, mẹ mất con, con mất cha… tất cả đều có dấu răng của bọn đế quốc thực dân.“Về chính trị, chúng tuyệt đối không cho nhân dân ta một chút tự do dân chủ nào.
Chúng thi hành những luật pháp dã man. Chúng lập ba chế độ khác nhau ở Trung, Nam, Bắc để ngăn cản việc thống nhất nước nhà của ta, để ngăn cản dân tộc ta đoàn kết.
Chúng lập ra nhà tù nhiều hơn trường học. Chúng thẳng tay chém giết những người yêu nước thương nòi của ta. Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong những bể máu.
Chúng ràng buộc dư luận, thi hành chính sách ngu dân.
Chúng dùng thuốc phiện, rượu cồn để làm cho nòi giống ta suy nhược.
Về kinh tế, chúng bóc lột dân ta đến xương tủy, khiến cho dân ta nghèo nàn, thiếu thốn, nước ta xơ xác, tiêu điều. Chúng cướp không ruộng đất, hầm mỏ, nguyên liệu.
Chúng giữ độc quyền in giấy bạc, xuất cảng và nhập cảng.
Chúng đặt ra hàng trăm thứ thuế vô lý, làm cho dân ta, nhất là dân cày và dân buôn trở nên bần cùng.
Chúng không cho các nhà tư sản ta ngóc đầu lên. Chúng bóc lột công nhân ta một cách vô cùng tàn nhẫn”.
Bác đã bóc trần bản chất nịnh bợ, giả tạo, luôn tỏ ra lương thiện, nhân đạo của thực dân mà thực chất là đang lăm le đô hộ lại nước ta, đồng hóa dân tộc ta. Từng câu từng chữ thốt ra như thấm vào tâm can của người đọc, người nghe, từng con chữ như thấm đẫm máu và nước mắt của nhân dân. Bao nhiêu căm phẫn, uất ức, bao nhiêu xót xa, thương tiếc như gói gọn trong những luận điệu, những bản án được nêu ra.
Bằng lời lẽ ngắn gọn, súc tích những câu văn như sóng trào cảm xúc, chất chứa bao nỗi căm hờn vạn lần đau đớn và những hình ảnh xác thực giàu sức gợi, Bác đã dựng lên trước mắt nhân dân toàn thế giới một thời kỳ lịch sử đầy đau thương, khốn cùng của con dân nước Việt. Tố cáo những tội ác “trời không dung, đất không tha” của Pháp, những hành động của chúng đều là xảo trá, là bịp bợm, là tàn nhẫn”. Nhân dân ta đã đứng lên đấu tranh với tinh thần bất khuất và kiên cường trái ngược với một thực dân Pháp đê hèn, đốn mạt.
“Sự thật là từ mùa thu năm 1940, nước ta đã thành thuộc địa của Nhật, chứ không phải thuộc địa của Pháp nữa. Khi Nhật hàng Đồng minh thì nhân dân cả nước ta đã nổi dậy giành chính quyền, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Sự thật là dân ta lấy lại nước Việt Nam từ tay Nhật, chứ không phải từ tay Pháp”.
Cách mạng tháng Tám thành công đã đồng thời giải quyết hai nhiệm vụ lớn lao đó là độc lập cho dân tộc và dân chủ cho nhân dân. Từ sự anh dũng đứng lên đấu tranh của nhân dân, Bác đã tiến tới khẳng định những thành quả đạt được. Đó là lời tuyên ngôn độc lập, tuyên bố thoát ly hẳn và không liên quan đến Pháp, xóa bỏ những hiệp ước đã ký kết với Pháp. Đồng thời khẳng định rõ quyền độc lập, tự do và dân chủ của đất nước Việt Nam.
“Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe Đồng Minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập!
Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập”.
Bằng sự hiểu biết , trí tuệ sâu rộng và cảm quan của một nhà cách mạng tài hoa đầy sáng suốt, Bác đã gỡ bỏ bộ mặt giả tạo và vạch trần bản chất dối trá của kẻ thù. Với lập luận chặt chẽ, Bác đã đưa ra cơ sở pháp lý đầy sức thuyết phục. Bằng tình cảm yêu thương tha thiết với nhân dân, cùng lòng yêu nước sâu sắc Bác đã khơi dậy niềm tự hào, ý chí quyết tâm chiến đấu và khẳng định quyền lợi chính đáng của con người trên khắp thế giới. Tuyên ngôn độc lập xứng đáng là một tác phẩm bất hủ, là niềm tự hào của toàn dân tộc Việt Nam. Như Nguyễn Đăng Mạnh từng nhận định rằng:
“Tài nghệ ở đây là dàn dựng được một lập luận chặt chẽ, đưa ra được những luận điểm, những bằng chứng không ai chối cãi được và đằng sau những lí lẽ ấy là một tầm tư tưởng, tầm văn hóa lớn, đã tổng kết được trong một văn bản ngắn gọn, trong sáng, khúc chiết kinh nghiệm của nhiều thế kỷ đấu tranh vì độc lập, tự do, vì nhân quyền của dân tộc và của nhân loại”.
Với bản Tuyên ngôn độc lập nước Việt Nam đã chính thức bước lên vũ đài chính trị quốc tế là một nước độc lập tự do. Bản Tuyên ngôn độc lập này đã được nhân dân tiến bộ trên toàn thế giới công nhận và coi trọng.Với những từ ngữ chặt chẽ, lý luận sắc bén, đanh thép chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết lên bản Tuyên ngôn độc lập với những ngôn ngữ sâu sắc nhất, thể hiện rõ thái độ và lập trường quan điểm của dân tộc Việt Nam trong những chặng đường sắp tới, thể hiện tầm nhìn chiến lược vĩ đại của Người.
SOẠN BÀI TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP – HỒ CHÍ MINH
(bài văn mẫu số 4)
“Tuyên ngôn độc lập” là một văn kiện lịch sử có giá trị to lớn, là bản văn quan trọng bậc nhất của nước ta do chủ tịch Hồ Chí Minh viết. Tác phẩm là văn kiện tuyên bố chính thức chấm dứt chế độ thực dân phong kiến của nước ta đồng thời mở ra kỷ nguyên mới, một kỷ nguyên của độc lập tự do.
“Tuyên ngôn độc lập” được ra đời trong hoàn cảnh lịch sử vô cùng đặc biệt. Đó là khi chính quyền cách mạng nước ta còn non trẻ, vừa mới được thành lập đã phải đối mặt với rất nhiều thử thách, các thế lực phản động cấu kết nhằm tước đoạt những thành quả mà chúng ta đã đạt được. Mặc dù vậy, bản tuyên ngôn vẫn được ra đời và có ý nghĩa lịch sử vô cùng to lớn đối với dân tộc ta.
Ở phần cơ sở pháp lý trong bản “Tuyên ngôn độc lập” Bác Hồ đã trích nguyên văn một đoạn trong bản Tuyên ngôn của nước Mỹ năm 1776 và dùng nó như một nền tảng pháp lý, một nguyên lý cơ bản quan trọng nhất làm tiền đề cho toàn bộ tư tưởng của tác phẩm. Từ quyền bình đẳng của con người Bác đã mở rộng và phát triển thành quyền bình đẳng của các dân tộc trên thế giới. Đó là một sự sáng tạo đầy bản lĩnh, trí tuệ và khôn khéo của Hồ Chủ tịch. Đó là sản phẩm của tư duy lập luận chặt chẽ, lý lẽ sắc bén, sáng tạo và là một đóng góp, cống hiến lớn của Người. Nó không chỉ có ý nghĩa thiết thực với cách mạng Việt Nam mà nó còn mở đầu cho phong trào giải phóng dân tộc trên toàn thế giới. Bên cạnh đó, Người còn trích dẫn một đoạn trong bản Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Pháp, đề cao quyền tự do bình đẳng của con người – là quyền cơ bản chính đáng, một lẽ phải không ai chối cãi được và nó được thừa nhận như một chân lý.
Việc sử dụng hai bản tuyên ngôn nổi tiếng của hai cường quốc lớn trên thế giới đang có âm mưu thôn tính nước ta là một sự khôn khéo tột cùng của Bác. Một mặt Bác muốn tăng sức thuyết phục cho bản tuyên ngôn độc lập nước nhà. Mặt khác, cách nêu dẫn chứng như thế vừa khéo léo vừa kiên quyết.. Khéo léo ở chỗ Bác vừa đề cao truyền thống bình đẳng, tự do, nhân đạo, tinh thần tự do tiến bộ của hai nước Mỹ và Pháp, lại vừa ngăn chặn âm mưu xâm lược nước ta của chúng. Đó chính là là sự khéo léo tài tình khi sử dụng nghệ thuật “gậy ông đập lưng ông”. Với những lý luận sắc bén nhất, lời văn ngắn gọn, súc tích cùng với giọng văn sang sảng mà hùng hồn, bản Tuyên ngôn như tiếng nói khẳng định đầu tiên trong cuộc đấu tranh chính nghĩa của dân tộc.
Ở phần cáo trạng Bác đã đưa ra những lỹ lẽ, dẫn chứng xác thực cụ thể trên mọi phương diện, từ kinh tế ,chính trị cho đến quân sự, văn hóa . Bác đã liệt kê đầy đủ những thủ đoạn áp bức bóc lột tàn độcmà nhân dân ta đã phải hứng chịu. Đây được coi là một bản tố cáo chi tiết những tội ác của thực dân Pháp đã gây ra. Sự tàn nhẫn, độc ác và tàn bạo của thực dân Pháp được Bác nhắc lại đầy đủ và rõ ràng đã tái hiện lại hình ảnh đất nước Việt Nam đầy đau thương, khổ cực trong quá khứ. Tiếp đến Bác đã kể đến quá trình giành độc lập tự do dân tộc của nhân dân ta. Đó là những cuộc đấu tranh chính nghĩa anh dũng kiên cường bất khuất của cả dân tộc. Bác đã nhân danh dân tộc khẳng định ý chí quyết tâm đập tan âm mưu xâm lược của thực dân Pháp. Sự quyết tâm ấy được thể hiện như một lời thề khắc cốt ghi tâm, một lời thề của non sông đất nước cất lên dõng dạc, dứt khoát.
Phần cuối cùng trong bản tuyên ngôn chính là lời lời tuyên bố độc lập và khẳng định sự quyết tâm giữ vững độc lập. Một lần nữa Bác đã khẳng định độc lập tự do chính là quyền tất yếu của dân tộc Việt Nam, là một sự thật lịch sử mà không ai có thể chối cãi được. Những câu văn ngắn gọn, súc tích cùng với giọng văn hùng hồn, đanh thép đã thể hiện được niềm tự hào tự tôn dân tộc của người viết. Bản Tuyên ngôn độc lập này cũng mang một ý nghĩa vô cùng trọng đại, là một văn kiện lịch sử, một bản văn quan trọng nhất của nước Việt Nam ta. Đồng thời, qua bản tuyên ngôn Hồ Chí Minh giải quyết được hai đó là giành lại độc lập cho dân tộc và dân chủ cho nhân dân.
Có thể nói rằng, bản “Tuyên ngôn độc lập” này là một áng văn chính luận vừa ngắn gọn, súc tích với lập luận sắc bén, dẫn chứng cụ thể xác thực kết tinh tài năng và tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Để rồi, Tuyên ngôn độc lập được coi là một “áng thiên cổ hùng văn”.
Có thể khẳng định rằng, Tuyên ngôn độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh vừa kế thừa được những chân lý của lịch sử dân tộc và thế giới vừa mang tính thời đại. Bản tuyên ngôn còn đồng thời mang tính tính lịch sử và mang tính văn chương. Bởi thế nó mãi mãi là áng văn bất hủ, là niềm tự hào của mỗi người Việt Nam yêu nước.
XEM THÊM
Tổng hợp tất cả các bài soạn văn 12 trong chương trình học