SOẠN BÀI TÂY TIẾN (QUANG DŨNG) – Sơ đồ tư duy, dàn ý, bài văn mẫu

4797
Soạn bài tây tiến ngữ văn 12
Soạn bài tây tiến ngữ văn 12
5/5 - (2 bình chọn)

Bài viết dưới đây sẽ hướng dẫn phân tích bài thơ Tây Tiến giúp các bạn cảm nhận đúng những tư tưởng, tình cảm mà nhà thơ Quang Dũng muốn gửi gắm thông qua bài thơ. Cùng phân tích từng câu thơ và từng chi tiết quan trọng của bài thơ để thấy hình ảnh một Tây Tiến vừa lãng mạn, vừa bi tráng gắn liền với vẻ đẹp kiêu hùng những người lính.

Tham khảo thêm:

1. Soạn dàn ý phân tích bài thơ Tây tiến

1.1. Soạn dàn ý nội dung phần mở bài phân tích bài thơ Tây tiến

  • Trình bày một vài nét tiêu biểu về tác giả Quang Dũng và đặc trưng trong thơ ca của ông (vừa hồn nhiên vừa tinh tế, vừa mang vẻ đẹp hào hoa, phóng khoáng và đậm chất lãng mạn).
  • Đưa ra một số nét khái quát về bài thơ Tây Tiến như hoàn cảnh ra đời, giá trị nội dung nổi bật của bài thơ.

1.2. Dàn ý chi tiết nội dung triển khai phần thân bài

1.2.1. Một số nét khái quát về bài thơ Tây Tiến – Quang Dũng:

  • Tây Tiến: là tên của một đoàn quân được thành lập năm 1947, có nhiệm vụ kết hợp với bộ đội Lào để bảo vệ khu vực biên giới Việt – Lào, làm hao mòn lực lực giặc Pháp.
  • Xuất thân của những người lính Tây Tiến: phần đông là người Hà Nội, trong đó có rất nhiều học sinh, sinh viên.
  • Hoàn cảnh sáng tác: Năm 1947, Quang Dũng đã gia nhập đoàn quân Tây Tiến, là đại đội trưởng. Cuối năm 1948, Quang Dũng chuyển về đơn vị mới vì nhớ đơn vị cũ nên ông đã viết bài thơ tại Phù Lưu Chanh (Hà Tây).
  • Chủ đề bài thơ: Ca ngợi vẻ đẹp của những người lính Tây Tiến, đó cũng là vẻ đẹp của những người lính trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, thể hiện tình cảm sâu nặng của nhà thơ với đơn vị Tây Tiến, với cảnh vật và với con người Tây Bắc một thời gắn bó.

1.2.2. Đường hành quân của những người lính giữa thiên nhiên Tây Bắc

  • Hai câu thơ đầu: nỗi nhớ dâng trào và thốt lên thành lời “Tây Tiến ơi” tiếng gọi thân thương, “nhớ chơi vơi” nỗi nhớ thường trực, bao trùm không gian.
  • Bức tranh thiên nhiên vùng núi Tây Bắc hoang sơ và dữ dội:
    • Địa danh Sài Khao, Mường Lát gợi lên sự hẻo lánh, xa xôi
    • Các từ láy mang tính tạo hình: “khúc khuỷu”, “heo hút”, “thăm thẳm”, điệp từ “dốc”, nghệ thuật điệp từ “Dốc lên … dốc lên” gợi lên hình ảnh địa hình hiểm trở, quanh co, gập ghềnh.
    • Hình ảnh “súng ngửi trời” thể hiện tầm cao của núi non mà  những người lính phải vượt qua nhưng cũng có cái nét hóm hỉnh của người lính trong đó.
    • Nhịp thơ bẻ đôi “Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống” nói lên sự nguy hiểm tột cùng.
    • Hình ảnh nhân hóa: “cọp trêu người”, “thác gầm thét” cho thấy hình ảnh hoang sơ, man dại, thời gian: “chiều chiều”, “đêm đêm” nhắc đến việc những người lính phải thường xuyên đối mặt với điều hiểm nguy chốn rừng thiêng nước độc.
    • Sử dụng nhiều các thanh trắc nhằm nhấn mạnh sự trắc trở, gập ghềnh của địa hình.
  • Khung cảnh thiên nhiên cũng có lúc êm dịu, nhẹ nhàng, mang đậm hương vị cuộc sống: “nhà ai Pha Luông…”, “Mai Châu mùa em…”, “cơm lên khói”, “Mai Châu mùa em…”, thanh bằng tạo cảm giác yên bình.
  • Hình ảnh về người lính Tây Tiến “dãi dầu không bước nữa”, “gục lên súng mũ bỏ quên đời”: hai câu thơ này có thể hiểu là đơn thuần miêu tả khoảnh khắc nghỉ ngơi của người lính sau một cuộc hành quân dài, cũng có thể hiểu đó là sự nghỉ ngơi vĩnh viễn.
  • Nhận xét: Thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ nhưng cũng đầy rẫy những hiểm nguy, đó chính là những thử thách lớn đối với những người lính Tây Tiến trên chặng đường hành quân.

1.2.3. Những kỷ niệm đẹp về tình quân dân, vẻ đẹp của thiên nhiên Tây Bắc

  • Kỉ niệm trong đêm liên hoan thắm tình quân dân:
    • Không khí trong đêm liên hoan tưng bừng với những màu sắc rực rỡ, lộng lẫy: “bừng lên”, “khèn lên man điệu”, “hội đuốc hoa”, con người duyên dáng: “xiêm áo”, “nàng e ấp”.
    • Tâm hồn của người lính bay bổng, say mê trong không khí ấm áp tình người: “Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”.
  • Khung cảnh sông nước, con người ở vùng Tây Bắc:
    • Vẻ đẹp huyền ảo, hoang dại, thiêng liêng: “Chiều sương”, “hồn lau nẻo bến bờ”.
    • Những con người lao động bình dị, mộc mạc: “dáng người trên độc mộc”, cảnh vật duyên dáng và đầy sức sống: “trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”.
  • Nhận xét: nhờ bút pháp lãng mạn mà Quang Dũng đã vẽ nên một bức tranh thiên nhiên thơ mộng, cuộc sống sinh hoạt đầm ấm và hình ảnh của con người duyên dáng vùng Tây Bắc.

1.2.4 Hình ảnh chân dung của những người lính Tây Tiến

  • Chân dung của người lính được miêu tả một cách chân thực: “đoàn binh không mọc tóc”, “xanh màu lá”, họ đã sống và chiến đấu trong điều kiện vô cùng khắc nghiệt, thiếu thốn đủ thứ, gian khổ nhưng vẫn mạnh mẽ “dữ oai hùm”.
  • Họ là những con người có tâm hồn lãng mạn, một trái tim yêu thương “Mắt trừng gửi mộng”/ “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”, lấy hình bóng của người thương nơi quê nhà làm động lực chiến đấu.
  • Vẻ đẹp bi tráng được thể hiện qua sự hi sinh anh dũng của họ:
    • Sẵn sàng cống hiến cả tuổi trẻ của mình cho đất nước “rải rác biên cương mồ viễn xứ”, “chẳng tiếc đời xanh”, “anh về đất”, ra đi nhẹ nhàng, thanh thản.
    • Cái chết đã được lí tưởng hóa như hình ảnh của những tráng sĩ xưa: “áo bào”, “khúc độc hành”; thiên nhiên cũng đau đớn thay cho những nỗi đau họ phải chịu .
  • Nhận xét: Dù trong hoàn cảnh khó khăn nhưng người lính Tây Tiến vẫn có những nét lãng mạn, hào hoa. Họ mang trên mình một vẻ đẹp kiêu hùng, sẵn sàng hi sinh cho tổ quốc.

1.2.5. Lời thề, hẹn ước gắn bó với đoàn quân Tây Tiến của tác giả

  • Câu thơ nhắc nhớ lại những ý nguyện, sự quyết tâm ra đi một thời của đoàn quân Tây Tiến: “người đi không hẹn ước”, chỉ còn là sự tiếc thương những đồng đội đã hi sinh “thăm thẳm một chia phôi”.
  • Niềm thương nhớ, tình cảm gắn bó của tác giả luôn gửi lại đoàn quân Tây Tiến và vùng rừng núi Tây Bắc “Ai lên Tây Tiến … / Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”.

1.3. Nội dung trọng tâm phần kết bài

  • Giá trị nghệ thuật trong bài thơ: bút pháp lãng mạn, những sáng tạo trong việc sử dụng ngôn ngữ và hình ảnh thơ.
  • Tổng kết giá trị nội dung của bài: bài thơ đã tái hiện lên vẻ đẹp vừa hùng vĩ, vừa thơ mộng của núi rừng Tây Bắc, hình tượng những người lính kiên cường, dũng cảm không ngại hi sinh nhưng cũng rất lãng mạn, mộng mơ.

2. Sơ đồ tư duy phân tích bài thơ Tây Tiến – Quang Dũng

Bên cạnh soạn dàn ý thì sơ đồ tư duy cũng là một phần rất quan trọng, nó giúp các bạn có một cái nhìn tổng quan về bài thơ Tây Tiến. Chi tiết sơ đồ tư duy bài tây tiến phía dưới:

Chi tiết sơ đồ tư duy tây tiến
Chi tiết sơ đồ tư duy tây tiến

3. Một số bài văn mẫu phân tích bài thơ Tây Tiến hay để bác bạn tham khảo

bài văn mẫu phân tích tây tiến
Bài văn mẫu phân tích tây tiến

Soạn văn bài Tây Tiến – Quang dũng

(Bài văn mẫu số 1)

“Có một không gian nào,
Đo chiều dài nỗi nhớ?
Có khoảng mênh mông nào
Sâu thẳm hơn tình thương?”

Trong thơ ca Việt Nam hiện đại có cả một khoảng trời dành cho nỗi nhớ. Đó là nỗi nhớ thương mà nhà thơ Hoàng Cầm đã gửi gắm lại mảnh đất của mình trong bài thơ “Bên kia sông Đuống”, đó là nỗi nhớ thương của người con xa quê qua bài thơ “Bếp lửa” của nhà thơ Bằng Việt. Đôi khi đó còn là nỗi nhớ thương trong tình yêu đôi lứa được thể hiện trong bài thơ “Hương thầm” của Phan Thị Thanh Nhàn. Và Quang Dũng – một người nghệ sĩ đa tài cũng không phải là một ngoại lệ khi đặt tình cảm của mình nơi những người đồng chí, đồng đội của mình qua bài thơ “Tây Tiến”.

Nói về nhà thơ Quang Dũng là ta sẽ nhớ ngay đến tác phẩm thơ đặc sắc viết về đề tài người lính của ông – Tây Tiến. Có lẽ do nó đã gắn bó sâu sắc với nhà thơ. Tây Tiến là tên của một đơn vị quân đội được thành lập vào năm 1947, mang nhiệm vụ phối hợp cùng với quân đội Lào, bảo vệ biên giới Việt – Lào, đánh tiêu hao sinh lực của địch ở vùng Thượng Lào và miền Tây Bắc Bộ Việt Nam. Quang Dũng là đại đội trưởng của binh đoàn Tây Tiến nhưng năm 1984, Tây Tiến giải thể và thành lập ra Trung đoàn 52, do đó mà Quang Dũng cũng chuyển sang đơn vị khác ở Phù Lưu Chanh  là 1 làng ven bờ ở sông Đáy. Trong nỗi niềm nhớ nhung về đơn vị cũ của mình, ông đã sáng tác thành công bài thơ với cái tên ban đầu là “Nhớ Tây Tiến” nhưng một thời gian sau, khi nó được in lại trong tập “Mây đầu ô” ông đã bỏ từ “nhớ” ra khỏi tiêu đề vì suốt cả bài thơ là mạch dòng cảm xúc của nỗi nhớ, một nỗi nhớ cồn cào và da diết, chỉ với hai từ “Tây Tiến” thôi cũng đã đủ để gợi lên cảm hứng chủ đạo của bài thơ, đó là nỗi nhớ.

Bài thơ bắt đầu với những câu thơ mang âm điệu trầm buồn và sâu lắng. Ẩn sâu trong đó là nỗi nhớ về thiên nhiên vùng núi rừng Tây Bắc, nỗi nhớ về những con đường hành quân hùng vĩ, dữ dội nhưng cũng rất thơ mộng, đầy trữ tình của một thời Tây Tiến đã qua! Nỗi nhớ ấy được thể hiện qua hai câu đầu của bài thơ được thốt lên thành tiếng gọi:

“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”

Mở đầu bài thơ, tác giả Quang Dũng đã đề cập tới hình ảnh con sông Mã. Và ta cũng thấy rằng, hình ảnh sông Mã đã xuất hiện ở đầu và gần cuối của tác phẩm, đây chính là nghệ thuật đầu cuối tương ứng, bắt mạch vòng với nhau để thể hiện rằng sông Mã đã gắn liền suốt đoạn đường hành quân của những người lính Tây Tiến từ vùng này sang vùng khác, từ địa bàn này sang địa bàn khác. Mặt khác, con sông Mã ấy còn được nâng tầm lên để trở thành một chứng nhân lịch sử ghi lại toàn bộ những tội ác tày trời của kẻ thù và những chiến công vẻ vang của người lính Tây Tiến. Như nhà thơ Phan Quế đã nhận xét rằng: “Câu thơ như một tuyệt bút thiên nhiên nói về sông Mã. Tôi chưa từng đọc câu thơ nào viết về sông Mã hay hơn thế. Âm vang của câu thơ như  là khí tiết của con sông chiến trận, quả cảm và dũng mãnh trong độc khúc binh lửa của mình mà tạo lên chất hiệp sĩ tứ thơ”. “Tây Tiến”không chỉ để gọi tên một đơn vị bộ đội mà nó như một người bạn “tri âm, tri kỷ” để Quang Dũng có thể giãi bày tâm sự. Câu thơ cảm thán kết hợp với điệp từ “nhớ” diễn tả một nỗi nhớ da diết, cồn cào như đang ùa vào trong tâm trí của nhà thơ, làm cho nỗi nhớ ấy cứ bồng bềnh như một dải lụa, vương vấn mãi không nguôi trong lòng người đọc. Nỗi nhớ ấy không chỉ riêng về dòng sông Mã, mà đó còn là nỗi nhớ về Trung đoàn Tây Tiến đã cùng với nhà thơ trải qua mọi khó khăn gian khổ, nỗi nhớ ấy đồng thời cũng là nỗi nhớ về địa bàn hoạt động, là nhớ về thiên nhiên vùng núi Tây Bắc hùng vĩ, hiểm trở nhưng thơ mộng và trữ tình. Đặc biệt là cách nói “nhớ chơi vơi” như khắc họa lên cái hồn của câu thơ. Thơ ca Việt Nam khi nói về nỗi nhớ có rất nhiều cách diễn tả. Trong ca dao có câu:

“Nhớ ai bổi hổi bồi hồi
Như đứng đống lửa, như ngồi đống than

Cách nói “xa rồi” lại càng nhấn mạnh cảm giác bâng khuâng, xao xuyến, tiếc nuối về một thời đã xa, những khoảng thời gian hay những kỷ niệm của một thời tươi đẹp, bởi những điều ấy sẽ không bao giờ có thể quay trở lại nữa. “Chơi vơi” là trạng thái trơ trọi giữa không gian rộng lớn, không thể bấu víu vào đâu cả. “Nhớ chơi vơi” ta có thể hiểu đó là một mình ở giữa thế giới hoài niệm mênh mông, không đầu, không cuối và không có thứ tự về thời gian, không gian. Đó là nỗi nhớ da diết, miên man, làm cho con người ta có cảm giác đứng ngồi không yên. Vần “ơi!” được kết hợp với từ “chơi vơi” đó chính là tiếng gọi tha thiết về đoàn binh Tây Tiến, diễn tả một nỗi nhớ sâu lắng, mênh mang, nỗi nhớ không nổi hình, nổi khối, lúc cụ thể  lúc lại chìm khuất trong hư ảo, chơi vơi. Nó còn vẽ ra trạng thái của nỗi nhớ – nỗi nhớ thấm vào cảnh vật, không gian, thấm cả vào thế giới mênh mông của những hoài niệm đã xa. ​Nhà thơ đã liệt kê hàng loạt các địa danh như: Sài Khao, Mường Lát, Mai Châu , Pha Luông…Đó đều là những nơi mà họ từng đi qua và dừng chân trên bước đường hành quân đầy gian khổ, những địa danh ấy đã in hằn dấu chân của đoàn binh Tây Tiến. Càng nhiều địa danh hiện lên thì nỗi nhớ lại càng da diết, mà càng da diết thì lại càng tạo cảm giác xa xôi, hoang vu, bí ẩn.

Trước hết là miền Tây Bắc hiện lên bởi con đường hành quân đầy sự gian nan, vất vả. Tuy thời tiết sương mù thật lạnh lẽo, khắc nghiệt nhưng cũng thật trữ tình:

“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi”

Nhắc đến Tây Bắc là nhắc đến vùng đất có địa hình hiểm trở và khí hậu khắc nghiệt. Ấn tượng đầu tiên về thiên nhiên nơi này chắc hẳn phải là sương. Trên đỉnh Sài Khao, sương mù dày đến độ che lấp luôn cả đoàn quân Tây Tiến đang ngày đêm hành quân,  vượt núi, băng sông khiến họ không nhìn rõ mặt nhau. Động từ “lấp” làm ta có cảm giác như chính sương đã khiến cho đoàn quân đã khó khăn lại thêm phần khó khăn hơn, bị trĩu xuống trong sự mỏi mệt. “Đoàn quân mỏi” nhưng tinh thần của họ thì không hề có chút sự mỏi mệt, nản lòng nào, bởi ý chí, sự quyết tâm ra đi vì Tổ quốc đã làm cho họ trở lên kiên cường và bất khuất hơn. Quang Dũng thật tài tình khi dùng hình ảnh sương mù để khắc họa lại sự khắc nghiệt của thiên nhiên vùng Tây Bắc. Cũng miêu tả sương, nhà thơChế Lan Viên đã viết trong “Tiếng hát con tàu”:

“Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ
Nơi nao qua, lòng lại chẳng yêu thương
​Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở
​Khi ta đi, đất đã hóa tâm hồn”

Nhưng cũng thật bất ngờ, khi trong cái gian truân, vất vả ấy lại vẫn có nét lãng mạn trong hình ảnh “hoa về trong đêm hơi”, đó chính là hương thơm của hoa nở vào lúc đêm phảng phất nhẹ nhàng trong tâm hồn những người lính. Nhưng ta cũng có thể hiểu “hoa” ở đây cũng chính là những người lính Tây Tiến trở về, bởi Bác Hồ đã từng nói rằng: “Con người ta là hoa đất, con người ta là đẹp nhất”, hơn thế hình ảnh hoa là một hình ảnh ẩn dụ chỉ những bó đuốc bình thường đang chập chờn, huyền ảo , lung linh mà người lính cầm trên tay để soi đường chỉ lối trong những đêm dài hành quân. Cái hay của nhà thơ chính là không nói hoa nở mà nói “hoa về”, không nói đêm sương mà nói “đêm hơi”. Cách dùng từ ngữ của tác giả đã chứng tỏ được vẻ đẹp trong tâm hồn của những anh bộ đội cụ Hồ là một tâm hồn đầy lãng mạn, hào hoa.

Ngoài sự lạnh giá của sương đêm thì dốc và đèo là những thứ không thể bỏ qua khi nhắc về thiên nhiên miền vùng núi Tây Bắc. Quang Dũng đã tả cảnh vượt dốc, băng đèo, vực thẳm, đường đi nguy hiểm với dốc cao tuy hùng vĩ, dữ dội nhưng cũng rất thơ mộng, huyền ảo:

“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng người trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”

Tác giả đã khéo léo sử dụng điệp từ “dốc” nhằm nhấn mạnh về độ cao mà người lính phải trải qua. Với một loạt những từ láy tượng hình toàn vần trắc như: “khúc khuỷu”, “heo hút”, “thăm thẳm” diễn tả một cách đắc địa về sự hiểm trở của núi rừng, những chặng đường hành quân luôn có sự nguy hiểm rình rập. “Khúc khuỷu” ý nói đường đi hiểm trở, nhiều gấp khúc. “Thăm thẳm” là từ để chỉ độ sâu nhưng tác giả lại dùng để chỉ độ cao, cao đến rợn người.  Nhà thơ đã không sử dụng từ “chót vót”, bởi như thế thì người đọc có thể cảm nhận được bề sâu của nó nhưng từ “thăm thẳm” thì khó ai có thể hình dung được nó sâu như thế nào. Để có thể đem lại một hình ảnh, một cảm giác chân thật như thế thì điểm nhìn phải là từ dưới lên mới có thể thấy dốc khúc khuỷu và nhìn từ trên xuống mới biết dốc sâu thăm thẳm, mà để có được cái nhìn như vậy thì buộc những người lính phải trải nghiệm, phải hành quân đi lên những ngọn núi, con dốc đầy rẫy sự nguy hiểm ấy. Kết hợp với nhịp thơ 4/3 gập đôi câu thơ đã giúp bạn đọc hình dung được các anh đang phải treo mình trên những triền núi đá, một bên là vực sâu thăm thẳm còn một bên là núi cao chót vót. Ở câu thơ đầu có 7 chữ thì có tận 5 thanh trắc, gợi tả cảm giác chênh vênh, gập ghềnh và vô cùng nguy hiểm. Ta nghe như có tiếng thở đầy mệt nhọc của người lính khi vượt qua đèo dốc, vực sâu. Đây cũng là chất nhạc trong thơ của Quang Dũng, nó làm ta liên tưởng đến tiếng nhạc trong bài hát “Nhạc rừng” của nhạc sĩ Hoàng Việt. “Cồn mây heo hút” thể hiện sự vắng vẻ, không có lấy một bóng người. Nhà thơ đã viết “súng ngửi trời” chứ không phải là “súng chạm trời”, bởi từ “chạm” hay “đụng” thì ý của câu thơ sẽ yếu hẳn đi, đồng thời “súng ngửi trời” cũng thể hiện được vẻ đẹp hiên ngang của những chiến binh dũng cảm, họ đang chiếm lĩnh tầm cao của thiên nhiên và chinh phục được nơi mà ít người lui tới. Khi những người lính Tây Tiến hành quân qua các đỉnh núi, thì mũi súng của các anh dường như đã chạm được đến đỉnh của bầu trời, khoảng cách được thu hẹp tới mức ngắn nhất giữa súng và trời, đó là hiện thực nhưng qua cách nói này của tác giả nó làm tôn thêm vẻ đẹp khí phách của người lính Tây Tiến, đồng thời đây cũng chính là những giây phút vui đùa, tếu táo, có nét tinh nghịch của người lính trẻ với nhau. Nhà thơ đã  sử dụng phép đối ở câu thơ thứ ba, đối “lên cao” với “thước xuống”, dấu phẩy đã bẻ gãy nhịp của câu thơ một cách đột ngột tạo thành hai vế hoàn toàn đối lập nhau. Điều đó làm hiện rõ lên hình ảnh núi cao và nguy hiểm đến khủng khiếp, dốc lên cao rồi lại đổ xuống ngay lập tức gần như là thẳng đứng, ngước lên thì cao vút, ngó xuống thì sâu thăm thẳm, khoảng cách giữa đỉnh dốc và mặt đất dường như xa “ngàn thước” vạn dặm. Dẫu vậy, những người lính cụ Hồ vẫn âm thầm tiến lên phía trước, đứng trên độ cao ấy và nhìn ra xa để rồi chợt vỡ òa vui sướng khi trước mắt là cảnh thôn quê êm đềm trải dài thân thương: “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”. Trong làn mưa bay bay của núi rừng Tây Bắc thì những ngôi nhà thoắt ẩn thoắt hiện, cứ bồng bềnh nằm giữa biển khơi của mưa và sương đọng lại. “Nhà ai” là những mái nhà, bản làng của những người vùng cao, các anh luôn luôn được đón tiếp một cách nồng hậu và đây cũng là địa điểm nghỉ chân của các anh. Vẻ đẹp này ta cũng từng bắt gặp trong bài thơ “Bao giờ trở lại” của Hoàng Trung Thông:

“Các anh về mái ấm nhà vui
Tiếng hát câu cười
Rộn ràng xóm nhỏ
Các anh về tưng bừng trước ngõ
Lớp đàn em hớn hở theo sau
Mẹ già bị rịn áo nâu
Vui đàn con nhỏ rừng sâu mới về”

Đó là cảm giác bình yên của những người lính khi được nhìn thấy những mái nhà của đồng bào miền cao. Và vui hơn nữa khi các anh được đón tiếp bằng một tình cảm quân dân nồng ấm.

Tuy trên những chặng đường hành quân, các anh gặp phải vô vàn khó khăn, gian nan đến tột cùng nhưng ta vẫn thấy trong các anh có sự can trường tột bậc. Đoàn quân vẫn vững tiến bước, người nối người, tiến lên phía trước. Uy lực của thiên nhiên dường như bị giảm xuống và giá trị con người lại như được nâng cao hẳn lên một tầm vóc mới. Quang Dũng cũng nhắc đến sự hi sinh của các đồng đội trên những chặng đường hành quân vô cùng khó khăn:

“Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời!”

Bài thơ “Tây Tiến” đã từng có một thời gian không được đưa vào trong chương trình giảng dạy vì tác phẩm này đã đề cập đến đề tài nhạy cảm trong văn chương Việt Nam thời bấy giờ, đó là viết về cái chết và sự hi sinh. Chúng ta biết rằng, văn chương nếu muốn thuyết phục lòng người thì trước hết phải có sự chân thật. Dù là viết về chiến tranh nhưng nhà thơ đã  không nề hà, né tránh sự thật đau thương, mất mát. Vì vậy mà “Tây Tiến” lại một lần nữa được đưa vào chương trình giảng dạy như một kiệt tác văn chương. Hai tiếng “ anh bạn” được cất lên như một tiếng nấc nghẹn ngào. Sức nặng của câu thơ đã dồn hết vào từ láy “dãi dầu” thể hiện sự vất vả, khó khăn trên những chặng đường hành quân. Đặc biệt thay, tác giả đã không viết “bị gục xuống” mà ông lại viết “không bước nữa”, đưa các anh từ thế bị động sang chủ động, họ chấp nhận cái chết, coi nó đơn giản như một giấc ngủ mà thôi. “Súng mũ” chính là biểu tượng của người lính, cho thấy rằng dù có ra đi, các anh vẫn không bao giờ quên mình vẫn là một người lính, dù có phải gục cũng “gục lên” súng mũ của người lính, tư thế hi sinh đầy xót xa nhưng cũng thật hào hùng, đẹp đẽ. Hình ảnh về những người lính anh dũng đã hy sinh ấy sau này ta còn bắt gặp trong “Dáng đứng Việt Nam”:

“Và anh chết trong khi đang đứng bắn
Máu anh phun theo lửa đạn cầu vồng”

Hình dáng của các anh bộ đội cụ Hồ dù có gục xuống nhưng vẫn không phai mờ trong tâm trí của Quang Dũng, của binh đoàn Tây Tiến và của cả những người tham gia kháng chiến. Họ đã hy sinh trên chặng đường hành quân đầy gian lao, có những người lính đã nằm xuống, rõ ràng súng cũng đã nổ, người dân Việt Nam cũng đã đổ máu, chiến tranh không phải là một trò đùa, có người ra đi thì sẽ có người hi sinh, đó là điều rất đỗi bình thường. Người lính ra đi nhưng đồng đội của anh vẫn tiếp bước. “Bỏ quên đời” là cách nói để làm giảm nhẹ sự mất mát, tang thương. Khi người lính hi sinh, cái chết bây giờ đã trở lên không đáng kể. Cách nói giảm phần thê lương nhưng tăng thêm cái tính chất cao cả, sự hy sinh thầm lặng và cao cả của những người lính Tây Tiến. Thông qua lăng kính lãng mạn của nhà thơ thì sự hi sinh ấy chỉ như giấc ngủ của người lính mà thôi. Ông thật tài tình khi miêu tả cái chết của những người lính nhẹ tựa lông hồng. Nhưng dù có thế nào vẫn không thể diễn tả hết được sự xót xa, thương tiếc, vì thế mà tác giả đành ngậm ngùi đặt dấu chấm cảm “!” vào cuối câu như gửi lại một nén nhang tâm tình.

Khó khăn vẫn chưa dừng lại ở đó, đất Tây Bắc đâu chỉ có mỗi đèo cao dốc thẳm hay mưa ngàn suối lũ mà còn biết bao thử thách hơn. Chặng đường hành quân của các anh qua vùng núi rừng Tây Bắc đầy hoang dại, bí ẩn và dường như là để thử thách bước chân của người lính vậy:

“Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”

Quang Dũng đã chọn ra hai mốc thời gian đó là “chiều chiều” và “đêm đêm”, đây là hai  thời điểm bộc lộ rõ nhất về sự nguy hiểm của chốn rừng núi Tây Bắc, và sự nguy hiểm ấy cứ tuần hoàn, lặp đi lặp lại, mỗi ngày các anh đều phải đối diện, phải trải qua những khó khăn, hiểm nguy như thế. Ở một nơi xa xôi thiên nhiên làm chủ thì khó khăn như tăng thêm bội phần. “Mường Hịch” với sức nặng dồn vào từ “Hịch” thể hiện bước chân nặng nề có bóng cọp vờn người, cọp giết người , cọp ăn thịt người, cọp xé xác người. Nhưng với bản lĩnh của người lính thì đó chỉ đơn thuần là trò đùa trẻ con, điều này được thể hiện qua từ “trêu” để thử thách sự gan dạ và độ bền gan của các anh bộ đội cụ Hồ mà thôi.

Và ở những câu thơ này, tác giả đã mô tả rất chân thực, dù chúng ta không sống trong thời kỳ này, chúng ta cũng chưa từng đặt chân lên núi non miền Tây, chưa từng nhập ngũ vào đoàn binh Tây Tiến. Nhưng khi đọc tác phẩm ta vẫn thấu hiểu được những gian lao mà người lính trải qua. Nhà thơ đã kết thúc khổ một bằng hai câu thơ đầy cảm xúc thương nhớ, nỗi nhớ ấy như phả vào bản làng Tây Bắc thân yêu:

“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi

Lần thứ hai trong bài thơ, tác giả đã gọi tên đơn vị Tây Tiến, phải chăng ông quá nhớ những gian khổ, những kỉ niệm mà ông đã gắn bó với các đồng đội của mình trong suốt năm tháng kháng chiến cùng nhau nên Quang Dũng mới thốt lên câu “nhớ ôi Tây Tiến” như vậy. Sau những chặng đường hành quân vất vả, mệt mỏi các chiến sĩ có dịp dừng chân dựng trại tại một bản làng có một cái tên rất đỗi thân thương-Mai Châu. Ở đây các thiếu nữ dân tộc trẻ trung xinh xắn đã mang cơm nếp thơm lên cho các anh, cùng các anh ngồi quay quần bên nồi xôi nếp khiến bao nhiêu vất vả, khó khăn đều tan biến hết. Đây là một khung cảnh đậm đà tình quân dân, chiến tranh dường như lùi dần vào một góc khuất nào đó nhường chỗ cho một cảnh sinh hoạt vui tươi, nhộn nhịp. Sau thời gian dài hành quân đầy vất vả giữa núi rừng phải chịu đói, chịu khát. Nay các anh đã được đồng bào Mai Châu đón tiếp bằng “cơm lên khói” cùng với mùi hương “thơm nếp xôi” thật là ấm lòng. Quang Dũng đã dùng từ “mùa em” nó thể hiện sự gần gũi, thân thương và gắn bó như “tình em”, các anh lính cụ Hồ nhớ những vụ mùa, nhớ cơm nếp thơm và nhớ cả những bóng hồng miền sơn cước. Cũng nói về hương nếp, hương xôi và tình cảm quân dân, nhà thơ Chế Lan Viên đã viết trong bài “Tiếng hát con tàu”:

“Vắt xôi nuôi quân em giấu giữa rừng
Đất Tây Bắc tháng ngày không có lịch
Bữa xôi đầu còn tỏa nhớ mùi hương”

Nhớ mùi hương thơm lúa gạo là nhớ hương vị của núi rừng Tây Bắc, nhớ tình người, nhớ tấm lòng cao cả của đồng bào Tây Bắc thân yêu.

Mười bốn câu đầu của bài thơ “Tây Tiến” đã vẽ lên bức tranh thiên nhiên hoành tráng, trên đó nổi bật là hình ảnh những chiến sĩ đầy bản lĩnh và lạc quan, đang dấn thân vào nơi máu lửa. Nửa thế hệ trôi qua nhưng bài thơ vẫn giữ được trị của mình. Như bốn câu thơ của Giang Nam:

“Tây Tiến biên cương mờ khói lửa
Quân đi lớp lớp động cây rừng
Và bài thơ ấy, con người ấy
Vẫn sống muôn đời với núi sông

Cảnh núi rừng hoang vu, hiểm trở, chênh vênh, dữ dội của núi rừng Tây Bắc đã lùi dần rồi khuất hẳn, nhường bước cho một thế giới hoàn toàn khác. Những nét vẽ mềm mại, uyển chuyển và tinh tế dưới ngòi bút tài hoa của nhà thơ Quang Dũng cũng được bộc lộ rõ nhất trong đoạn thơ thứ hai. Đó là nỗi nhớ về những đêm giao lưu văn nghệ và vẻ đẹp huyền hồ của thiên nhiên vùng Tây Bắc. Mở đầu phần hai là sự tiếp nối của cái hương vị “thơm nếp xôi” ấy. “Hội đuốc hoa” đã trở thành một kỉ niệm đẹp trong lòng nhà thơ, trở thành hành trang trong tâm hồn của mỗi chiến binh Tây Tiến. Trên con đường hành quân đầy gian khổ, các anh dừng chân dựng trại và được sự tiếp đón nhiệt tình, nồng hậu của người dân nơi đây. Đối với Quang Dũng cũng như những người lính trẻ, cái không khí tươi vui của đêm liên hoan văn nghệ thấm đậm tình quân dân với ánh lửa sáng bừng luôn là những kỉ niệm mà khó có thể nào quên:

“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”

Đêm liên hoan văn nghệ này được tổ chức ngay ở doanh trại bộ đội, đây là hiện thực. Không gian trong bốn câu thơ này không còn rộng lớn như đoạn thơ đầu nữa, mà không gian giờ đây đã được thu hẹp lại thành “doanh trại” – một không gian bình yên, ấm cúng được coi là mái nhà của người lính. Ở đây, những người lính không còn phải gồng mình lên để chiến thắng những khó khăn, vất vả ngoài kia mà tâm hồn họ đã thực sự được thư giãn. Hai từ “bừng lên” trong câu thơ như nhấn mạnh thêm phần tưng bừng náo nhiệt, ấm áp, rực rỡ và ngập tràn ánh sáng. “Bừng” chỉ ánh sáng của ngọn đuốc hoa, của lửa trại, “bừng” cũng có nghĩa là tiếng khèn, tiếng hát, tiếng cười đùa tưng bừng rộn rã. Ở đây, nhà thơ đã có cách ví von đầy tính nghệ thuật trong hai từ “đuốc hoa”. “Đuốc hoa” trong tiếng Hán có nghĩa là nến hoa chúc – một biểu tượng hạnh phúc của các cặp đôi uyên ương, là từ ngữ được dùng trong văn học cũ: “Đuốc hoa chẳng thẹn với chàng mai xưa” (trích Truyện Kiều). Nhưng thật ra, “đuốc hoa” được tác giả nhắc đến ở đây chỉ là những bó đuốc bình thường được thắp lên trong những đêm giao lưu văn nghệ của người lính Tây Tiến, những bó đuốc ấy sẽ phát ra các tia lửa khi có gió thổi qua và qua lăng kính lãng mạn của tác giả thì nó lại trở thành đuốc hoa, khiến cho ta liên tưởng đến lễ cưới. “Kìa em” là sự ngắm nghía, đồng thời cũng là lời thốt lên bất ngờ vì vẻ đẹp lộng lẫy, kiêu sa của các cô em gái miền cao. Đằng sau từ “kìa” là thấy cả những ánh mắt, nụ cười hết sức yêu đời pha chút tinh nghịch, phong độ và tài hoa của những người lính Tây Tiến. “Xiêm áo” chính là chỉ những bộ trang phục của người con gái miền cao, nhưng ta có thể hiểu đây là một hình ảnh vô cùng vui tươi, tinh nghịch, đáng yêu của người lính khi các anh mặc những bộ xiêm y của phụ nữ rồi cùng nhau nhảy múa, vui đùa xung quanh ngọn lửa trại. Từ thời xa xưa, những chiếc khèn bè đã được dùng làm nhạc đệm trong các làn điệu dân ca, làm nền cho những điệu dân vũ, hát đối, giao duyên, trong các dịp như lễ Tết, lễ hội hay tiếng khèn dùng để gọi bạn tình trong đêm khuya của những chàng trai cô gái Lào khi yêu nhau. Tiếng khèn bè trầm bổng mà sâu lắng, dồn dập, rộn ràng, làm náo nức cả không gian yên ắng. Khi tiếng khèn cất lên làm cho người nghe thấy da diết, sâu lắng  và trong sáng như tiếng suối reo, gió hát, hiện lên vẻ hoang sơ nhưng hùng vĩ của núi rừng Tây Bắc. Bởi thế, nhà thơ đã không khỏi say sưa và quyện vào cùng tiếng nhạc du dương của khèn, vừa lạ vừa mang tính sơ khai mà còn đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc. Từ “man điệu” được tác giả sử dụng ở đây cũng rất tài hoa, người đọc như được chứng kiến những vũ khúc hoang sơ của nền văn hóa Âu Lạc. Trong những đêm sinh hoạt ấy có trang phục đẹp, có âm nhạc, còn có cả những điệu múa, điệu nhảy vui tươi. Điều đó được minh chứng khi ban đầu ông dùng từ “em” nhưng sau ông lại chuyển sang dùng từ “nàng”. Từ cách sử dụng ấy khiến ta cảm nhận được em như một nàng tiên kiều diễm và ta như lạc vào cõi thần tiên với một không khí say mê đến ngây ngất lòng người. Những thiếu nữ Mường,Thái vừa xinh đẹp vừa duyên dáng, “e ấp” xuất hiện trong những bộ xiêm áo rực rỡ, hòa cùng với tiếng khèn “man điệu” đã “xây hồn thơ”, xây lên cả nỗi nhớ bâng khuâng trong lòng những người lính trẻ. Viêng Chăn không phải là một địa danh của Việt Nam, mà đó là thủ đô của nước Lào. Ta đã nhận thấy được sự đặc biệt trong địa bàn hoạt động của người lính Tây Tiến. Họ không chỉ chiến đấu trên đất nước ta, mà còn cầm súng trên đất nước bạn Lào. “Nhạc về” tạo lên độ phiêu du phiêu lãng khiến tâm hồn những người lính trở lên thăng hoa. Mọi cảm giác mệt mỏi đều tan biến hết, thay vào đó là sự yêu đời, yêu cuộc sống. Chính những phút giây hạnh phúc, vui vẻ ấy đã nâng bước họ mạnh mẽ hơn trên con đường hành quân phía trước.

Ở đoạn thơ này, nhà thơ đã làm xuất hiện một thế giới khác của  vùng núi Tây Bắc, thiên nhiên giờ đây không còn khốc liệt, dữ dội nữa mà thay vào đó là vẻ đẹp thơ mộng và trữ tình. Ở đâyngòi bút của Quang Dũng đã có sự thay đổi, bên cạnh nét vẽ mạnh mẽ, khỏe khoắn thì còn có những đường nét mềm mại, uyển chuyển và  tinh tế. Tất cả đã làm cho bức tranh thiên nhiên và con người miền Tây Bắc hiện lên rất rõ.

Bốn câu thơ trên là hình ảnh của đêm lễ hội tưng bừng hòa hợp với ánh sáng lung linh cùng với tâm hồn trẻ trung, yêu đời của các chiến sĩ Tây Tiến thì bốn dòng thơ tiếp theo, nhà thơ đã đưa người đọc đến với hình ảnh của con người và vùng núi rừng Tây Bắc trong một buổi chiều sương mù. Một không gian bản làng khói sương như trong cõi mộng cứ thế hiện ra. Cái dữ dội, khốc liệt được đẩy lùi phía sau thay vào đó là những hình ảnh vừa nhẹ nhàng vừa thơ mộng:

“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa

“Người đi”  ở đây chắc hẳn là người lính Tây Tiến. Hình ảnh đầu tiên hiện lên là hình ảnh của một “chiều sương” cho ta thấy được nét đặc trưng vốn có của núi rừng nơi đây. Nhưng sương lúc này không phải là sương mù, sương lấp hay sương phủ, mà chỉ là những làn sương bình thường mở ảo, là khói sương mang theo chút man mác buồn. Địa danh duy nhất được nhắc tới trong khổ hai chính là Châu Mộc, bởi đây là nơi có cảnh sắc thiên nhiên rất đẹp, có núi sông diệu lệ, có thung lũng lúa chín vàng, có nắng vàng rực rỡ, có gió cuốn mây bay. Mở ra một không gian buổi chiều của sương khói, hiện ra như một miền cổ tích, chính vì vậy mà Châu Mộc là nơi đã để lại cho các anh nhiều ấn tượng và kỷ niệm sâu sắc nhất. Đại từ “ấy”  đã làm rõ nghĩa hơn cho từ chiều sương, nhà thơ muốn nhấn mạnh rằng đây là một buổi chiều rất đặc biệt, chiều sương trong nỗi nhớ đã trở thành kỷ niệm nên tình người cũng man mác, bâng khuâng. Chữ “ấy” bắt vần với chữ “thấy” trong câu thơ sau, một vần lưng thân tình, âm điệu câu thơ cũng bị trĩu xuống như một nút nhấn. Thời xưa nữ thi sĩ nhớ về kinh thành Thăng Long là nhớ “hồn thu thảo”, thì nay Quang Dũng nhớ về “hồn lau”, là nhớ về cái xào xạc của gió, nhớ những cờ lau trắng trời và những cây lau giăng khắp mọi nẻo bến bờ. Trong văn chương của Nguyễn Tuân thì cảnh vật không hề vô tri vô giác, bởi đó chính là nghệ thuật nhân hóa “hồn lau”. Nỗi buồn, tâm trạng của người đi dường như cũng đã khuếch tán vào cảnh vật, những bông lau sậy chập chờn cũng có hồn của nhà thơ.  Trong thơ Chế Lan Viên có viết:

“Ai lên biên giới cho lòng ta theo với
Thăm ngàn lau trắng chỉ có một mình
Bạt ngàn trắng ở tận cùng bờ cõi
Suốt một đời với gió giao tranh”

Những hình ảnh “chiều sương ấy”, “bến bờ”, “hồn lau” và “hoa đong đưa” kết hợp với cách hỏi “có thấy, có nhớ” đã mở ra một khung cảnh buổi chiều sương trong ký ức. Điệp ngữ “có thấy-có nhớ” luyến láy như chạm thêm vào nỗi nhớ da diết, cháy bỏng khôn nguôi. Độc mộc là một loại thuyền, nó được làm từ cây gỗ lớn dài, dáng người trên chiếc thuyền độc mộc ấy có thể là hình ảnh uyển chuyển của những cô gái Thái, Mèo đang đưa các chiến sĩ vượt sông. Nhưng ta cũng có thể xem đây là hình ảnh kiêu dũng của các chiến sĩ Tây Tiến đang chèo chống con thuyền vượt thác dữ để tiến về phía trước. Tất cả những hình ảnh ấy đều đã để lại trong lòng Quang Dũng một cách khó phai nhòa. Cảnh và người hòa quyện một cách đồng điệu. Ai nói rằng Tây Bắc là nơi rừng thiêng nước độc xin hãy để tâm hồn mình lắng lại để chất thơ Tây Bắc ngấm vào hồn. Câu thơ cuối được nhà thơ  dùng từ rất tinh tế, ông đã dùng từ láy hoa “đong đưa” thay vì là “đung đưa” hay “đu đưa”, bởi nếu viết “hoa đung đưa” thì cảnh vật ở đây như vô tri vô giác, gợi đến một sự chuyển động về cơ học khô khan, cứng nhắc, còn “hoa đong đưa” thì lại khác, nó cho người đọc cảm thấy trong đó có hồn người, thể hiện sự chuyển động duyên dáng, tình tứ, bông hoa lau bỗng trở thành những sinh thể có hồn đang làm duyên, làm dáng trên mặt nước sóng sánh vậy. Cánh hoa rừng dường như cũng quyến luyến con người, cánh hoa ấy như những bàn tay vẫy chào người lính, tiễn các anh vượt sông đi đánh giặc. Cảnh vật như có hồn, có sự thiêng liêng của núi rừng, mang đậm đà màu sắc cổ tích và huyền thoại. Qua những nét vẽ hư ảo trên, ta thấy trước mắt mình như hiện lên một bức tranh sơn thủy hữu tình mang theo dấu ấn của một tâm hồn nhạy cảm, tinh tế, tài hoa, lãng mạn vô cùng yêu mến và gắn bó với mảnh đất miền Tây Bắc trong tâm hồn Quang Dũng. Đồng thời ta cũng cảm nhận được tâm hồn đang rung động của các chiến sĩ Tây Tiến trước cái đẹp.

Tám câu thơ như đã vẽ lên khung cảnh thiên nhiên, con người miền Tây với vẻ đẹp mĩ lệ, thơ mộng, đầy trữ tình. Chất nhạc, chất họa, chất mơ mộng đã hòa quyện với nhau trong đoạn thơ tạo lên một thế giới của cái đẹp. Từng nét vẽ của tác giả đều mềm mại, uyển chuyển mà tinh tế. Đây là đoạn thơ bộc lộ rõ nhất về sự tài hoa, lãng mạn của Quang Dũng trong bài tổng thể cả bài thơ.

Giữa thiên nhiên núi rừngTây Bắc hùng vĩ, dữ dội nhưng cũng đầy thơ mộng trữ tình là hình ảnh của người lính Tây Tiến với những gian khổ thiếu thốn được thể hiện qua khổ thơ thứ ba. Nếu như ở những đoạn thơ đầu, hình ảnh đoàn quân mới chỉ hiện lên qua nét vẽ gián tiếp, nói đến những gian lao, hy sinh và địa bàn hoạt động thì ở đây, đoàn quân ấy đã hiện lên với những nét vẽ cụ thể hơn, gân guốc, rạch ròi. Đã trở thành khuôn sáo khi đề cập đến sự can trường, gan dạ của các chiến binh:

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm

Đó là một bức tượng đài bi tráng về những chàng trai xuất thân từ thủ đô hoa lệ, họ đã sẵn sàng ra đi với lý tưởng sống cao đẹp “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Hai câu thơ trên nói về ngoại hình của người lính Tây Tiến nơi đây. Nhà thơ đã miêu tả, khắc tạc cả một tập thể của mình, những con người anh hùng bằng cái tên khá thú vị – “Đoàn binh không mọc tóc”, cái hào hùng hiện lên qua cách dùng từ Hán Việt “đoàn binh” thay vì là “quân ấy” gợi lên sự mạnh mẽ đến lạ thường, gợi âm vang khỏe khoắn và khẳng định một lực lượng đông đảo, hừng hực khí thế. Nhà thơ Phạm Tiến Duật cũng đã từng gọi tiểu đội của mình bằng một cái tên bắt nguồn từ hiện thực khắc nghiệt  đó là “Tiểu đội xe không kính”, qua đó ta thấy được tinh thần lạc quan cùng với chất lính dí dỏm hài hước.

Đây là những câu thơ tả thực, thực một cách trần trụi: Các chiến sĩ Tây Tiến hồi ấy hoạt động ở những vùng núi hiểm trở, nơi rừng thiêng nước độc, chết trận thì ít mà chết bệnh thì nhiều, có những con suối khiến họ rửa chân thì rụng lông, gội đầu thì rụng tóc. Câu thơ cũng mang đến một nét nghĩa khác là người lính Tây Tiến họ đã tự cạo trọc đầu để trở thành những anh “vệ trọc” nhằm giữ vệ sinh trong sự thiếu thốn trăm bề và cũng dễ thuận lợi hơn trong việc đánh giáp lá cà. Hơn nữa nhà thơ còn đề cập đến một căn bệnh, nó đã ám ảnh vào cả một thời kì trong văn chương ở thời kì kháng chiến chống Pháp, căn bệnh đã khiến cho các anh bị rụng tóc đó là bệnh sốt rét rừng. Một căn bệnh vô cùng nguy hiểm đã hoành hành dữ dội khiến cho người chiến sĩ chết bệnh còn nhiều hơn cả chết trận. Thơ ca kháng chiến đã từng ghi lại những hình ảnh về sự tiều tụy, đau đớn của người chiến sĩ vì sự nguy hiểm của căn bệnh này, không chỉ người lính trong “Tây Tiến” mà ngày trong cả bài thơ “Đồng chí” của nhà thơ Chính Hữu cũng có nhắc đến:

“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi

Quang Dũng đã thật tinh tế khi viết “không mọc tóc” chứ không phải là “tóc không mọc”, bởi “không mọc tóc” một cách sắp xếp từ ngữ để chỉ cái ngang tàng, ngạo nghễ, tinh thần vượt lên trên cả sự khốc liệt của cuộc chiến ở người lính nhưng lại có nét hóm hỉnh, đùa vui là không cần mọc tóc. Từ đó ta thấy rằng, hiện lên trong những trang thơ của Quang Dũng đó là vẻ đẹp của anh vệ trọc đáng yêu, tuy ốm nhưng lại chẳng hề yếu.

Trong thực tế, “xanh màu lá” chính là màu xanh của làn da những người đang bị ốm, làn da xanh xao, vàng vọt, bủng beo. Điều này ta có thể thấy được sự tương đồng trong bài “Cá nước” của nhà thơ Tố Hữu:

“Giọt giọt mồ hôi rơi
Trên má anh vàng nghệ
Anh vệ quốc quân ơi
Sao mà yêu anh thế”

Hay trong thơ của Thôi Hữu cũng có nhắc đến:

“Khuôn mặt đã lên màu bệnh tật
Đâu còn tươi nữa những ngày hoa

Đâu chỉ riêng những người lính trong thơ của Quang Dũng mới bị mắc bệnh, mới phải chết vì căn bệnh quái ác này. Thế nhưng một lần nữa thông qua lăng kính lãng mạn của nhà thơ, màu xanh ấy đã không còn là màu của làn da đang bị ốm nữa mà nó lại trở thành màu xanh của áo lính, màu xanh của những lá cây ngụy trang, xanh sắc mạ non, xanh lũy tre làng. Nhà thơ đã dùng từ “dữ oai hùm” một cách rất sáng tạo, nó tạo nên âm hưởng mạnh mẽ cho câu thơ khiến cho người đọc cảm nhận được sức mạnh tinh thần lớn lao, khí thế oai hùng khiến cho kẻ địch phải khiếp sợ của đoàn binh. Hình ảnh những người lính Tây Tiến trong tư thế làm chủ thiên nhiên, làm chủ đất trời vùng Tây Bắc, đạp đổ mọi khó khăn, gian khổ để tiến về phía trước, họ thật mạnh mẽ, oai phong lẫm liệt như con mãnh hổ ngự trị chốn rừng xanh rộng lớn. Câu thơ thứ hai đã tạo ra hai vế đối lập giữa “quân xanh màu lá” với “dữ oai hùm”, một bên là vẻ tiều tụy, thiếu thốn, khó khăn gian khổ, một bên lại là khí phách anh hùng của những người lính Tây Tiến. Ba tiếng “dữ oai hùm” tạo lên một âm hưởng mạnh mẽ và hùng tráng cho câu thơ khiến người đọc cảm nhận được khí thế của đoàn quân khi ra trận, câu thơ ngắt nhịp mạnh tô đậm thêm cái nét hùng dũng. Như Vũ Quần Phương đã nhận xét: “Quân xanh màu lá, màu áo hay màu da? Chắc là cả hai! Chỗ này tả người lính rất khéo, nói được lính ốm mà không yếu, có tóc rụng, có da xanh, nhưng ấn tượng lưu lại là dữ oai hùm”. Mười bốn chữ thơ mà đã chạm khắc vào lịch sử hình ảnh một đoàn quân oai hùng phi thường, độc đáo, có một không hai trong cuộc đời cũng như trong thơ ca.

​Khó khăn gian lao là thế, nhưng các chiến binh Tây Tiến ấy vẫn không nguôi đi những tình cảm lãng mạn. Nếu như hai câu thơ trên như nét khắc, nét chạm vào không gian của tác giả để tạo lên một bức tượng đài với ngoại hình ốm mà không yêu, thì hai câu thơ sau, tác giả lại nói lên vẻ đẹp tâm hồn của họ. Tâm hồn chính là sức mạnh của nội tâm, là khí phách của những người lính. Dù cuộc sống có bao nhiêu vất vả thiếu thốn nhưng không vì thế mà từ bỏ cái lý tưởng “mộng chinh phu, mộng giai nhân”:

“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”

Cùng một lúc ta có thể thấy xuất hiện hai hành động trong tâm hồn của người lính Tây Tiến đã đồng thời xảy ra. Đó là “mắt trừng” và “gửi mộng”. Hai câu thơ như nhốt trọn hai thế giới, hai giấc mộng của người lính Tây Tiến vậy. Người ta vẫn thường hay nói: “Đôi mắt là cửa sổ tâm hồn, là tâm điểm của mọi suy nghĩ”. Vì vậy, khi bắt gặp đôi mắt trừng đã gợi cho người đọc nhiều liên tưởng. Đôi mắt của các anh đang mở to nhìn thẳng về phía quân thù mà bắn với ý chí quyết tâm thề sống chết với kẻ thù. . Hình ảnh “mắt trừng” là một ánh mắt mở to, đầy dữ dằn, căm phẫn hướng về phía trước, ánh lên sự quyết tâm và khát vọng chiến đấu giành chiến thắng. Ban ngày thì các anh gửi ánh mắt trừng đầy căm thù tới kẻ địch. Nhưng đôi mắt ấy còn gửi mộng qua biên giới – mộng giết giặc, mộng lập công và mộng hòa bình. Một hình ảnh ước lệ đã làm tôn lên khí thế oai phong lẫm liệt, kiêu hùng của đoàn quân như trong bài thơ “Bài ca chim Chơ Rao” của Thu Bồn đã từng viết:

“Quân thù kia ơi! Một bầy man rợ
Bay đừng hòng khuất phục đời ta
Bay định đốt ta thành hòn than quỳ lạy
Trong ánh lửa hồng ta xuất hiện một vòng hoa”.

Nhiều người cho rằng : “dáng kiều thơm” ở đây chính là nỗi nhớ của Quang Dũng về quán kiều trên phố Hàng Bông, nơi mà ông hay lui tới để đàm đạo văn chương. Cũng có người cho rằng đó là hình ảnh những người lính đang nhớ về những thiếu nữ Hà Thành, nhớ người yêu với vẻ đẹp “sắc nước hương trời” của mình, với các chiến sĩ thì nỗi nhớ ấy như là sự cân bằng, thư thái trong tâm hồn sau mỗi chặng đường dài hành quân vất vả, chứ không phải là nhớ những điều ấy mà quên đi nhiệm vụ cao cả, nhớ để mà nản lòng đuối chí.  Một thời câu thơ “đẹp một cách lãng mạn” như thế này mà đã khiến cho tác giả của nó và cũng chính bài thơ trải qua bao gió dập, sóng dồi. Vì từng một thời bị phê phán bởi thói tiểu tư sản, nhưng thực ra chính nhờ vẻ đẹp ấy mà tâm hồn người lính có sức mạnh để vượt qua mọi gian khổ. Nhà thơ đã tạo nên một nét tương phản hết sức đặc sắc. Những con người chiến đấu với ý chí kiên cường sắt thép cũng chính là con người có một đời sống tâm hồn phong phú. Người lính Tây Tiến không chỉ biết cầm súng đứng lên đi theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc mà còn rất hào hoa, phong nhã, giữa bao nhiêu gian khổ, thiếu thốn nhưng  trái tim họ vẫn luôn rung động trong nỗi nhớ về một dáng kiều thơm. Bức tượng đài về người lính Tây Tiến đã được khắc tạc bằng những nguồn ánh sáng tương phản lẫn nhau, vừa hiện thực lại vừa lãng mạn. Tại sao lại cấm những người lính xuất thân từ chốn thành thị sống với những tâm tình riêng của mình, còn những người lính xuất thân từ nông dân thì lại được phép nhớ người thân, nhớ giếng nước, nhớ gốc đa. Vấn đề là những nỗi nhớ ấy của các chiến sĩ có ảnh hưởng đến ý chí, tinh thần chiến đấu hay không? Hay họ vẫn hiên ngang, anh dũng chắp tay súng tiêu diệt kẻ thù. Có lẽ đa phần người lính Tây Tiến đều là học sinh, sinh viên đang còn ngồi trên ghế nhà trường, tuổi đời cũng còn rất trẻ nên hành trang mang theo khi ra chiến trường không chỉ có súng đạn mà còn là cả một thế giới tâm hồn đầy mộng mơ.

Tuy nhiên, thơ hay thì không nên truy theo nghĩa riêng để làm mất đi cái vẻ đẹp của bài thơ ấy, mà ta phải truy theo nghĩa chung. Dù có đến quán kiều như nhà thơ Quang Dũng, dù là nhớ dáng hình yêu kiều của người con gái đi chăng nữa thì những người lính ấy đều thương nhớ về quê hương, nhớ về Hà Nội với những con đường nồng nàn mùi hoa sữa:

“Từ thuở mang gươm đi mở cõi
Ngàn năm thương nhớ đất Thăng Long”

Bài thơ đã khép lại nhưng âm điệu vẫn mãi vang vọng trong tâm hồn mỗi người đọc. Nhịp điệu trùng điệp, nét bút lãng mạn hào hùng của bài thơ đã để lại dấu ấn sâu sắc. Có những tác phẩm đã gặp nhiều nhưng rồi ta lại quên đi nhưng có những tác phẩm ta chỉ bắt gặp một lần lại sống mãi. Ấy là Tây Tiến! Hình ảnh những người lính Tây Tiến lung linh ngời sáng với cả hào khí dân tộc!

Tham khảo bài văn phân tích tây tiến
Tham khảo bài văn phân tích tác phẩm tây tiến

Soạn ngữ văn 12 bài Tây Tiến – Quang dũng

(Bài văn mẫu số 2)

Giai đoạn 1945 -1954, Quang Dũng là một nhà thơ tiêu biểu và rất đặc biệt, bởi không chỉ là một nhà thơ cầm bút sáng tác mà ông còn là một người lính cầm súng đánh giặc. Có lẽ chính vì vậy mà những bài thơ của Quang Dũng luôn gắn liền với hình ảnh những người lính, cũng là người đồng đội của ông. Nổi bật nhất trong các sáng tác của ông đó là bài thơ Tây Tiến. Với bút pháp lãng mạn xen lẫn với tả thực, bài thơ đã khắc họa thành công hình ảnh đoàn quân Tây Tiến với khí thế hiên ngang  một  tâm hồn thơ mộng trong thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp.

Mở đầu bằng hai câu thơ với tiếng gọi tha thiết của mình được vang lên trong tâm thức của nhà thơ:

“Sông Mã xa rồi, Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi.”

Nhớ về đồng đội của mình, nhà thơ cũng nhớ ngay đến con sông Mã, nó là con sông đã cùng với ông và những người chiến sĩ đi qua bao khó khăn, thử thách, là một chứng nhân lịch sử cho cuộc chiến đấu anh dũng, oai hùng của các anh. Bởi lẽ, sông Mã là con sông chảy dọc theo một loạt các địa điểm nơi mà những người lính hành quân ở vùng biên giới phía Bắc: Lạng Sơn ,Lai Châu, Lào Cai, Sơn La. Mỗi một nơi dừng chân mà những người lính đi qua, họ có thể không nhớ hết nhưng hình ảnh con sông luôn hằn sâu trong tâm thức của mỗi người chiến sĩ . Nhớ về sông Mã, nhà thơ đã cất lên tiếng gọi thân thương: “Tây Tiến ơi!” Nỗi nhớ như ùa về, nhớ núi rừng, nhớ đồng đội – những người bạn đồng hành trong những năm tháng gian lao, nhớ vẻ đẹp vùng núi Tây  Bắc, một nỗi nhớ chơi vơi không nắm bắt được. Bao nhiêu những kỉ niệm dần hiện lên trong trí nhớ của Quang Dũng:

“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi.”

Nếu ở hai câu thơ đầu kí ức còn chưa rõ ràng, nhà thơ nhớ nhiều nhất  về hình ảnh hiện hữu là con sông Mã thì ở đây, mọi thứ đã dần hiện ra rõ nét hơn. Tác giả đã nhắc lại những tên làng, tên bản, nơi mà những người chiến sĩ dừng chân. Đêm xuống, cả đoàn binh Tây Tiến đã thấm mệt sau một ngày dài chinh chiến. Trong khoảnh khắc dừng chân ngắn ngủi ấy, người lính vẫn cảm nhận được vẻ đẹp của  thiên nhiên núi rừng Tây Bắc, thật thơ mộng, trữ tình “Mường Lát hoa về trong đêm hơi”.

Những chặng đường hành quân đầy khó khăn, gian khổ khiến người lính mỏi mệt được khắc họa trong các câu thơ tiếp theo:

“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”

Nhà thơ đã sử dụng một loạt các từ láy “khúc khuỷu”, “heo hút” , “thăm thẳm” như vẽ lên một khung cảnh thiên nhiên với địa hình rừng núi hiểm trở, dường như đang thách thức sự chịu đựng của con người. Núi rừng Tây Bắc hoang vu, hẻo lánh, khó lường với những khó khăn chồng chất trên đường hành quân của người lính. Thương cho cái sự gian truân, vất vả, thương cho bao gian lao, khổ cực của chốn rừng thiêng nước độc mà những người lính phải chịu đựng. Là “ngàn thước lên cao ngàn thước xuống”, nhà thơ đã rất khéo léo khi sử dụng biện pháp nghệ thuật đối lập ở đây. Ngẫm phép đối mà mới hay cho cảnh sắc thiên nhiên nơi đất trời miền Tây Bắc, người ở dưới nhìn lên thì như chốn tiên lạc xa xăm, kẻ ở trên nhìn xuống thì mịt mờ mây và sương mù che kín. Những ngọn núi, đồi cao, cũng như độ sâu hiểm hóc, chỉ một bước sẩy chân cũng có thể để lại hậu quả khôn lường. Nhưng trong cái khó khăn ấy, qua lăng kính lãng mạn của nhà thơ ta vẫn thấy có chút gì đó thật thơ mộng “súng ngửi trời”. Đứng trên độ cao này có thể nhìn thấy mọi cảnh vật, người lính đánh mắt nhìn ra phía xa, thấy những căn nhà của bản làng như là nỗi nhớ về quê hương của mình mà thốt lên: “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.”

Phải chịu đựng vô vàn những khó khăn, thách thức, đã có lúc người lính gục xuống:

Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời”

Cụm từ “bỏ quên đời’ cho thấy một khí thế bất khuất, oai hùng trong con người các anh, những phút giây nghỉ chân dọc đường, người lính đã quên hết mọi âu lo bộn bề của cuộc sống. Hình ảnh thơ còn ngụ ý nói đến cái chết, sự ra đi của những người lính, họ đã hi sinh vì Tổ quốc nhưng nhà thơ lại miêu tả sự hi sinh ấy thật nhẹ nhàng mà rất hiên ngang. Những tưởng bao khó khăn, gian khổ của người lính chỉ dừng lại ở đó, nhưng Quang Dũng còn hé lộ thêm cho người đọc về những mối hiểm nguy khác mà đoàn binh Tây Tiến phải đối mặt:

“Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”

“Thác gầm thét” và “cọp trêu người” là hai hình ảnh nhân hóa để khắc họa những hiểm nguy đe dọa đến tính mạng người lính. Vượt lên tất cả nghịch cảnh đó, người chiến sĩ nhớ đến những động lực đã thúc đẩy các anh có để bước tiếp:

“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”

Hai câu thơ cuối của khổ thơ đầu tiên là một  hình ảnh thơ đầy thi vị. Nỗi nhớ lại cất lên thành lời “nhớ ôi” – một nỗi nhớ da diết khôn nguôi của người lính, nhớ về những bữa cơm thơm mùi khói, mùi nếp của người dân nơi núi rừng Tây Bắc đã tiếp đón các anh. Dù thiếu thốn nhưng họ vẫn tiếp đón, chiêu đãi các anh bằng những gì chân thành nhất, làm sao quên được những bữa cơm thắm đượm tình quân dân chỉ có trong lịch sử.

Trong khổ thơ thứ hai của bài thơ viết về những kỉ niệm của người lính trong đêm liên hoan văn nghệ:

“Doanh trại bừng lên ngọn đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viêng Chăn xây hồn thơ

Hai từ “bừng lên” gợi tả một không khí vui tươi, náo nhiệt, những người chiến sĩ cùng với người dân nơi đây thắp sáng ngọn đuốc, làm tác giả liên tưởng đến hình ảnh “ngọn đuốc hoa”. Cụm từ “kìa em” cho thấy cách xưng hô thân mật, như người nhà, gợi tả tình cảm thắm thiết giữa quân và dân. Người lính say mê những tiếng khèn, khúc hát, điệu nhảy của con người  nơi đây. Tất cả như xây đắp lên tâm hồn của người lính, khiến cho họ trở lên lãng mạn, vui tươi, bay bổng hơn bao giờ hết.

“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”

Hình ảnh “người đi” là sự chia tay của người lính với những người dân ở nơi họ đã dừng chân, những người đã cưu mang họ, người lính ra đi trong một chiều sương mờ ảo. Trong làn sương ấy thấp thoáng đâu đó hình ảnh “cỏ lau”, “dáng người trên độc mộc” và đặc biệt là hình ảnh “hoa đong đưa”. Cảnh vật hiện lên thật buồn, một nỗi buồn man mác, lưu luyến khi phải chia xa. Người lính lại phải tiếp tục lên đường làm nhiệm vụ.

Trong khổ thơ cuối nhà thơ Quang Dũng đã miêu tả hình ảnh chân dung người lính Tây Tiến thật ngang tàn:

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”

Với nét bút tả thực, thực đến trần trụi, hình ảnh chân dung người lính hiện lên thật khác lạ “không mọc tóc”. Nhà thơ đã tinh tế trong cách đảo từ “không” lên phía trước, cách nói “không mọc tóc” chứ không phải là  “tóc không mọc” cho thấy một tinh thần bất khuất, hiên ngang của người lính Tây Tiến. Quân xanh màu lá ở đây ngụ ý chỉ làn da xanh xao của họ. Người lính đã phải chịu đựng những cơn sốt rét rừng, khiến cho làn da của họ trở lên xanh xao, gầy guộc cùng với mái tóc rụng hết. Trong cái hiện thực tàn khốc đó, người lính vẫn vô tư, thản nhiên, ung dung với khí thế ngang tàn, không thèm mọc tóc.

Nhưng nhà thơ Quang Dũng không chỉ dừng lại ở miêu tả chân dung người lính Tây Tiến mà còn cho thấy tâm hồn của họ:

“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm

Người lính trẻ luôn nhớ về quê hương tha thiết. Khi nhớ về quê hương, trong tâm thức của họ còn hiện ra hình ảnh “dáng kiều thơm”, đó có lẽ là hình ảnh của người yêu, người đang mong ngóng ngày mà họ trở về. Nhưng chính họ cũng chẳng rõ ngày mình trở về và có được toàn vẹn hay không:

“Rải rác biên cương mồ viễn xứ
………..
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”

Cái chết, sự ra đi vì quê hương, đất nước chính là minh chứng cho việc các anh đã anh dũng chiến đấu hết mình. Ở nơi chiến trường ngoài kia, biết bao người lính đã không tiếc tuổi xuân của mình mà hy sinh cho dân tộc. Hình ảnh “áo bào thay chiếu” cho thấy sự đau xót, tiếc thương của nhà thơ dành cho họ, các anh đã yên tâm về với đất mẹ thân thương, nơi được chở che mãi mãi. Chứng kiến những chặng đường của người lính, nay lại phải chứng kiến cả cái chết của các anh, sông Mã như gầm lên đau xót, tiếng thét ấy vang lên mang âm hưởng tiếc thương sâu sắc với cuộc đời của họ. Nhưng dù có biết trước rằng mình có thể sẽ chết, sẽ hy sinh nhưng người lính Tây Tiến vẫn chẳng thể nào bỏ cuộc, bởi thiên nhiên vùng núi rừng Tây Bắc đã chiếm lĩnh tâm hồn, trái tim của các anh mất rồi:

“Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.”

Bài thơ Tây Tiến với ba khổ thơ, lần lượt đã khắc họa những khó khăn, gian khổ cùng những khoảnh khắc vui tươi cũng như chân dung và tâm hồn của người lính. Qua đó làm hiện lên cho ta hình ảnh của một đoàn binh oai hùng, anh dũng bất khuất trong thời kì chiến tranh. Ta thầm cảm ơn những anh hùng ấy vì họ đã chiến đấu ngoan cường, để đem về cho đất nước nền độc lập như ngày hôm nay.

Tham khảo bài văn phân tích tác phẩm tây tiến
Tham khảo bài văn phân tích tác phẩm tây tiến

Soạn văn 12 bài Tây Tiến – Quang dũng

(Bài văn mẫu số 3)

Quang Dũng là một trong những nhà thơ tiêu biểu của chùm thơ chiến sĩ. Với lời thơ hào hùng nhưng đầy lãng mạn, những sáng tác của ông đều để lại âm vang lớn trong lòng người đọc cho đến tận ngày nay. Và “Tây Tiến” chính là một trong những tác phẩm như thế.

Tây Tiến là tên của một đoàn quân với đa số là những chàng trai sinh viên, học sinh Hà thành. Đoàn quân được thành lập vào đầu năm 1947 và Quang Dũng chính là đại đội trưởng. Cuối năm 1948, Quang Dũng đã chuyển sang đơn vị khác. Tại làng Phù Lưu Chanh, ông đã viết bài thơ” Nhớ Tây Tiến” sau in trong “Mây đầu ô” thì đổi tên thành Tây Tiến. Nổi bật của tác phẩm chính là cảm hứng lãng mạn và bi tráng trong từng câu thơ. Mở đầu là nỗi nhớ da diết, miên man trải dài, được thốt lên với tiếng gọi:

“Sông mã xa rồi Tây tiến ơi

Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”

Tác giả đã gọi tên dòng sông Mã- một nhân chứng theo suốt những bước chân hành quân của đoàn quân. Quang Dũng nhớ về những người đồng đội, “nhớ về rừng núi”. Nỗi nhớ ấy cứ cồn cào, da diết mãi để rồi bật lên thành tiếng gọi “Tây Tiến ơi”. Đặc sắc nghệ thuật trong hai câu thơ đầu chính là ở cách gieo vần “ơi” và từ láy “chơi vơi”. Bằng chính sự thành công của đặc sắc ấy, nhà thơ đã diễn tả hết được tâm tư, nỗi lòng của mình. Nỗi nhớ cứ miên man, cồn cào, da diết khôn nguôi, nỗi nhớ từ tận đáy lòng rồi bật lên vang vọng.

Nhớ về Tây Tiến là nhớ đến những ngày tháng khó khăn gian khổ suốt chặng đường hành quân. Một loạt các địa danh được nhắc đến ở những câu tiếp: Sài Khao, Mường Lát, Mai Châu, Pha Luông, Mường Hịch. Đây đều là những địa danh hoang vu, heo hút, là những minh chứng cho chặng đường dài đầy gian khổ của người lính Tây Tiến.

“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi

Mường Lát hoa về trong đêm hơi”

Hai câu thơ này đã thể hiện rất rõ cảm hứng lãng mạn trong thơ của Quang Dũng. Trong những đêm lạnh ở vùng cao, sương đã giăng phủ kín, mặc dù đã “mỏi” nhưng con đường hành quân vẫn hiện ra rất đẹp, thơ mộng với hình ảnh “hoa về trong đêm hơi”. Những câu thơ tiếp theo thể hiện rõ hơn về sự khắc nghiệt của thiên nhiên trên con đường hành quân. Một loạt những từ ngữ diễn tả sự gập ghềnh của hành trình ấy đã hiện lên một cách chân thực nhất về hình ảnh thiên nhiên hoang sơ nơi rừng núi: “dốc lên khúc khuỷu, dốc xuống thăm thẳm đường đi heo hút”. Câu thơ “dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm” như bị chặt đôi ra đã diễn tả thật rõ sự gập ghềnh của núi, của chặng đường đi. Điều đó càng được tăng lên gấp bội nhờ câu “ngàn thước lên cao ngàn thước xuống”. Chặng đường dài ấy cứ trùng trùng điệp điệp nối tiếp nhau. Thế nhưng trước thiên nhiên hoang sơ kì vĩ ấy lại là hình ảnh “súng ngửi trời”. Đây là một hình ảnh vô cùng đẹp và lãng mạn của chàng lính Tây Tiến. Giữa núi rừng thiên nhiên hùng vĩ nơi đây, có những người chiến sĩ vác súng trên vai mà đi. Câu thơ giúp người đọc cảm thấy như mũi súng có thể chạm tới đỉnh trời. Hình ảnh này như khẳng định ý chí quyết tâm của người chiến sĩ, “khó khăn nào cũng vượt qua – kẻ thù nào cũng đánh thắng”. Giữa thiên nhiên hoang sơ ấy, tinh thần của người chiến sĩ vẫn rất vững vàng:

“Anh bạn dãi dầu không bước nữa

Gục lên súng mũ bỏ quên đời!

Chiều chiều oai linh thác gầm thét,

Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”

Bằng ngòi bút chân thực, nhà thơ đã tái hiện lại sự thật đau thương của cuộc hành quân. Sự tinh tế được thể hiện khi nhà thơ không dùng từ “hi sinh” hay “ra đi” mà thay vào đó là từ “không bước nữa”, đây là cách nói làm giảm đi sự đau thương mất mát. Những hình ảnh ấy qua lời thơ của Quang Dũng không hề bi thương mà còn rất hào hùng “gục lên súng mũ bỏ quên đời”. Người chiến sĩ đã anh dũng hi sinh bên súng mũ trong tư thế hiên ngang “chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”. Hình ảnh này đã đi sâu vào lòng người đọc cho đến tận ngày nay. Quả đúng không ngoa khi nói “tượng đài tự do được xây bằng máu và nước mắt”. Những khó khăn mới lại đến với những người lính nơi đây. Đó là sự hiểm nguy của rừng núi, chốn hoang sơ luôn rình rập “cọp trêu người”, “thác gầm thét”. Nhưng không vì thế mà làm cho người lính Tây Tiến nao núng. Trái lại họ lại còn lạc quan nhớ đến sự ấm áp của tình người nơi đây “nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói-Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”. Cặp từ “mùa em” đầy sáng tạo, chứa bao tình thương nỗi nhớ của tác giả.

Thơ Quang Dũng đâu chỉ có những hiện thực khắc nghiệt mà còn có phút giây lãng mạn, vui tươi:

“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa,
Kìa em xiêm áo tự bao giờ.
Khèn lên man điệu nàng e ấp,
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ.

Người đi Châu Mộc chiều sương ấy,
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ?
Có nhớ dáng người trên độc mộc,
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa?”

Đoạn thơ này đã làm thay đổi không khí của cả bài. Với âm hưởng vui tươi, lạc quan nhộn nhịp, tác giả đã cho người đọc thấy được sự hào hoa của người lính Tây Tiến. Đêm liên hoan văn nghệ thắm đượm tình quân dân đã in hằn sâu trong tâm trí Quang Dũng khiến ông không thể nào quên. Hình ảnh những cô gái Thái, Mường xinh đẹp điệu đà trong xiêm áo, e ấp trong điệu nhạc tiếng khèn, đã khiến người lính phải ngỡ ngàng thốt lên “kìa em”. Bằng tâm hồn lãng mạn, nhà thơ đã vẽ lên một viễn cảnh mộng mơ của Châu Mộc trong chiều sương với “hồn lau”, “hoa đong đưa”. Phải chăng bông hoa ấy chính là hình ảnh của cô lái đò trên dòng nước lũ? Nét duyên dáng thơ ngây của con người và cảnh vật nơi đây đã được phác họa thành bức tranh tuyệt trần qua thơ của Quang Dũng.

Nối tiếp mạch thơ là những hình ảnh người lính Tây Tiến với vẻ đẹp kì dị, lạ lùng:

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”

Bút pháp tả thực – thực một cách trần trụi lại một lần nữa được Quang Dũng sử dụng triệt để. “Đoàn binh không mọc tóc”, “quân xanh màu lá” đó là kết quả của những trận sốt rét rừng. Trong thời kì này, các chiến sĩ đã chiến đấu trong hoàn cảnh hết sức khó khăn, thiếu thốn đủ thứ như lương thực, thuốc men, ngay cả trang bị chiến đấu “áo anh rách vai quần tôi có vài mảnh vá”, “chân không dày”. Nhiều khi người lính chết bệnh còn hơn chết trận. Nhưng dù với dáng vẻ như vậy thì người lính Tây Tiến vẫn hiên ngang, uy hùng mà không hề yếu ớt ” dữ oai hùm”, “mắt trừng”. Đoạn thơ này đã thể hiện rõ cảm hứng lãng mạn và bi tráng của nhà thơ. Quyết tâm giết giặc “gửi mộng qua biên giới” cũng không làm giảm sự lãng mạn của người lính. Họ vẫn nhớ về quê hương, nhớ về người con gái của mình.

“Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh

Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

Một mùi chết chóc sực lên trong đoạn thơ này. Màu sắc ảm đạm, u uất bao trùm cả khổ thơ. Nhưng dưới ngòi bút tài tình của tác giả, nó hiện lên bi tráng mà không bi lụy. Cái chí khí của người lính được bộc lộ rõ ràng. Họ quyết tâm đi “chẳng tiếc đời xanh” để đem lại hòa bình, nền độc lập cho dân tộc. Họ đã ngã xuống nhưng vẫn mang trong mình dòng máu nóng nhiệt huyết. “Áo bào thay chiếu anh về đất” như một cách nói giảm nói tránh, những người chiến sĩ ngã xuống là về với đất mẹ bao la. Hình ảnh sông Mã lại một lần nữa hiện lên như tiễn đưa linh hồn người lính.

“Tây Tiến người đi không hẹn ước

Đường đi thăm thẳm một chia phôi

Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy

Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”

 

Họ ra đi không hề “hẹn ước”, không hẹn ngày trở về, họ quyết tâm giành lại độc lập cho dân tộc. Đó là tinh thần bất khuất “một đi không trở lại” của người lính Tây Tiến cũng như những anh bộ đội cụ Hồ lúc bấy giờ. Một lần nữa nhà thơ đã khẳng định ý chí sắt đá của những người lính Việt.

Bằng bút pháp nghệ thuật tả thực cùng với cảm hứng lãng mạn, Quang Dũng đã tạo ra một tác phẩm tuyệt vời. Chân dung người lính Tây Tiến đã được khắc họa rõ nét qua lời thơ và nỗi nhớ của tác giả dành cho tiểu đội của mình. Quả thực, “Tây Tiến” xứng đáng là một bản anh hùng ca của chùm thơ cách mạng Việt Nam thời bấy giờ.

 

XEM THÊM: