PHÂN TÍCH BÀI THƠ VIỆT BẮC ( TỐ HỮU) – dàn ý, sơ đồ tư duy, bài văn mẫu

2738
phân tích bài thơ việt bắc
phân tích bài thơ việt bắc
5/5 - (1 bình chọn)

Tham khảo thêm:

Dàn ý chi tiết phân tích bài thơ Việt Bắc của nhà thơ Tố Hữu

1. Nội dung cần có trong phần mở bài

  • Giới thiệu về tác giả: Tố Hữu (1920-2022) ông là lá cờ đầu trong thơ ca cách mạng Việt Nam.
  • Giới thiệu sơ qua về tác phẩm: Bài thơ như là khúc hát giao duyên, là lời nhắn gửi tâm tình giữa người về xuôi và người ở lại, là lời giãi bày tình cảm thắm thiết và nỗi nhớ trùng điệp của người ra đi. Việt Bắc chính là một trong những tác phẩm thơ thể hiện tài năng đỉnh cao, phong cách nghệ thuật của Tố Hữu.

2. Nội dung trong phần thân bài

2.1. Tâm sự của người ở lại

2.1.1. Lời nhắn nhủ của những người Việt Bắc:

  • Bốn câu thơ đầu có hai câu hỏi tu từ, người ở lại hỏi người ra đi có còn nhớ “ta” là người nơi đây, hỏi nhớ “núi, nguồn” là nhớ mảnh đất đã từng chung sống và gắn bó 15 năm nghĩa tình. Câu hỏi mượn cớ nhưng thực ra là nhắc nhở, nhắn nhủ những người về xuôi đừng quên mảnh đất tình người.

=>  Hiệu quả của nghệ thuật câu hỏi tu từ là để bộc lộ cảm xúc người nói, người ở lại kín đáo, bộc lộ nỗi nhớ và tình yêu dành cho người về xuôi không phai mờ.

  • Lời giãi bày tâm sự của nhà thơ, tự nhắc nhở mình.

2.1.2. Tâm sự của những người về xuôi trong buổi chia tay:

  • Bốn câu thơ tiếp gợi ra khung cảnh chia tay. Bịn rịn, quyến luyến ..tạo lên bầu không khí ngập tràn tình cảm.
  • Từ láy “bâng khuâng, bồn chồn”lột tả tâm trạng xao xuyến, xốn xang vì tình cảm bị níu kéo lại
  • Nói lên nỗi lòng thương mến của người ở lại dành cho con người Việt Bắc.
  • Áo chàm” hình ảnh ẩn dụ của Việt Bắc. Tượng trưng cho tâm hồn chất phác, chân thành và sâu nặng của người Việt Bắc.

2.1.3. Trong lúc chia tay, đã khơi gợi lại những tháng ngày gian khổ ở chiến khu:

  • “Mưa nguồn suối lũ”: đất trời vần vũ, chìm trong mưa gió bão bùng, nói lên sự khắc nghiệt của mùa mưa Việt Bắc khiến cuộc sống trong rừng thêm khó khăn.
  • “Những mây cùng mù” biện pháp chêm xen nhằm nhấn mạnh bầu trời u ám nặng nề, gian khổ đè nặng, ẩn dụ những ngày đầu đầy khó khăn của kháng chiến.
  • “Miếng cơm chấm muối”: vừa tả thực vừa ước lệch chỉ những thiếu thốn về mọi mặt ở chiến khu.
  • Khi gian khổ có nhau đến khi vui sướng thì người đi kẻ ở, giờ phút chia tay lòng người ở lại bỗng xốn xang vì tiếc nuối nhớ nhung. Biện pháp hoán dụ “rừng núi” chỉ người Việt Bắc, nỗi nhớ thêm kín đáo hơn, đại từ “ai” mang phong cách dân gian mộc mạc.
  • Người Việt Bắc nhắc đến những kỉ niệm lịch sử khó quên, tự hào về mảnh đất anh hùng…

=>  Hình thức đối thoại, đoạn thơ đã diễn tả tình cảm người Việt Bắc dành cho cán bộ chiến sĩ thắm thiết, mặn nồng.

2.2. Tâm sự của người ra đi

  • “Ta với mình, mình với ta” là một sự khẳng định về tấm lòng thủy chung, một lòng mặn mà của người đi kẻ ở.
  • Người ra đi luyến tiếc gửi nỗi nhớ vào thiên nhiên, nhớ về trăng trong những buổi chiều tà, nắng hiu hắt chiều sương, rừng nứa bờ tre… nhớ về thời gian bốn mùa cùng ở bên nhau.
  • Nhớ về con người Việt Bắc: dù có bao gian khó, gập ghềnh nhưng không chùn bước, cùng nhau chia sẻ những ngọt bùi qua cơn đói rét. Nhớ về kỉ niệm ấm áp bên bộ đội và đồng bào.
  • Nhớ hình ảnh đoàn kết, hào hùng cùng xông pha đánh giặc.
  • Nhớ những chiến công lẫy lừng cùng niềm vui thắng trận.

=> Tình cảm của người chiến sĩ dành cho con người, quê hương Việt Bắc cũng là tình cảm mà nhà thơ dành cho nhân dân, đất nước, tình yêu cuộc sống kháng chiến.

2.3. Bức tranh tứ bình đẹp đẽ qua cái nhìn đầy ưu ái của Tố Hữu

2.3.1. Lời tâm sự của người đi tha thiết và sâu lắng:

  • “Hoa và người”: nỗi nhớ hướng tới đối tượng cụ thể.
  • Đại từ nhân xưng “mình-ta” đã thể hiện tình yêu thương gắn bó sâu nặng của người đi kẻ ở.
  • Điệp từ “ta về” đầu câu thể hiện nỗi niềm xao xuyến, tâm trạng luyến lưu, vấn vương trong buổi chia tay và còn khơi gợi về quá khứ.

2.3.2. Trong nỗi nhớ, bức tranh hiện ra có vẻ đẹp gần gũi, gắn bó giữa cảnh với người:

  • Cảnh thiên nhiên được gói lại trong 4 mùa, thành bộ tranh tứ bình tuyệt đẹp ghi lại bởi bút pháp chấm phá, hồn thơ cổ điển.
  • Vẻ đẹp mùa đông: thiên nhiên có nét chấm phá sắc đỏ thắm tươi của hoa chuối, sự tương phản màu sắc gợi lên vẻ rực rỡ. Không gian bỗng trở lên trong sáng, ấm áp nhờ sắc đỏ, khiến nỗi nhớ thêm rạo rực lòng người.
  • Khi đất trời vào xuân, thiên nhiên Việt Bắc khoác trên mình gam màu xanh lá của núi rừng điểm tô thêm sắc trắng tinh khôi của hoa mơ. Động từ “nở” cùng tính từ “trắng” đã gợi lên hình ảnh những đóa hoa đang khoe sắc, độ xuân thì. Trong cảnh xuân ấy con người miệt mài lao động, tạo bức tranh hài hòa.
  • Sang hè thì Việt Bắc mang sắc vàng tươi xinh của rừng phách. Phong cảnh mùa hạ hiện ra vẻ cổ điển, hữu tình ngời sáng, lung linh.
  • Sau cùng là cảnh thu với vẻ đẹp của đêm trăng sáng. Một nét huyền ảo, hiền hòa và mộng mơ. Vẻ đẹp mang theo ước mơ tươi sáng ở tương lai.

Đoạn thơ đã khép lại bằng “khúc hát ân tình thủy chung”. Đó là tiếng hát của người ở lại và cũng là của người ra đi. Khúc hát của sự hy vọng thiết tha cùng tình quân dân đậm sâu.

=> Đoạn thơ mở ra một thế giới của cái đẹp: thiên nhiên đẹp, con người đẹp, trong đó là tấm lòng đẹp theo cùng là nỗi nhớ đẹp. Thể hiện tình quân dân sâu sắc, tình đất nước cao đẹp của nhà thơ.

2.4. Việt Bắc rộng lớn trong những tháng ngày ra trận hào hùng

2.4.1 Với bút pháp sử thi tác giả đã khắc họa đoàn quân sục sôi khí thế trên những nẻo đường ra trận:

  • Điệp từ “đêm đêm” diễn tả thời gian dài, từ láy “rầm rập” âm thanh phối hợp cùng nhịp thơ 2/2 gợi tả những bước chân hành quân đều nhịp, chắc khỏe.
  • Biện pháp nói quá “đất rung” thể hiện sức mạnh đoàn quân phi thường.

2.4.2 Đường hành quân đầy gian lao, nguy hiểm nhưng các chiến sĩ vẫn cảm nhận được vẻ đẹp thiên nhiên, mây trời và niềm vui ngắm cảnh: cho thấy tinh thần lạc quan, yêu đời tin vào tương lai.

  • Hoán dụ “mũ nan”: người chiến sĩ ra chiến trường mang theo một mối tình quân dân để tiếp thêm động lực chiến đấu.
  • Hình ảnh súng và sao cụ thể mang tính biểu tượng. Đầu súng gợi lên cảnh chiến tranh, sao thì vẽ ra khung cảnh thanh bình, một tương lai tươi sáng hay ánh sao còn ẩn dụ cho đôi mắt của người yêu.

2.4.3. Hình ảnh đoàn dân công:

  • Ánh đuốc sáng gợi tả không khí lao động hăng say, phá đá mở đường. Ánh sáng đó toát lên sức mạnh, khí thế hào hùngvà gieo lên niềm tin tươi sáng.
  • Hình ảnh “bước chân nát đá” như tô đậm sức mạnh vĩ đại của đoàn dân công.
  • Đoàn dân công có vẻ đẹp của người anh hùng ra trận, sức mạnh của chiến tranh nhân dân.

2.4.4. Đoàn quân ra trận gửi về bao chiến công vang dội, làm chấn động địa cầu:

  • Liệt kê một loạt các địa danh để thấy chiến thắng dồn dập, tưng bừng.
  • Điệp từ “vui” diễn tả niềm phấn khích, hồ hởi vô biên trong chiến thắng.

=> Đoạn thơ đã tái hiện chân dung Việt Bắc trong những ngày ra trận, qua đó ca ngợi con người Việt Bắc anh hùng, đất nước anh hùng.

Nội dung phần kết bài

Việt Bắc là bài thơ xuất sắc ghi đậm dấu ấn của nhà thơ Tố Hữu. Nó không chỉ hài hòa giữa cổ điển và hiện đại, giữa cảnh và người, giữa tình và lí mà còn là chất thơ dân gian, sử thi anh hùng ca đặc biệt chỉ có ở Tố Hữu.

Tham khảo sơ đồ tư duy bài việt bắc

sơ đồ tư duy việt bắc
Chi tiết sơ đồ tư duy việt bắc

Bài văn mẫu phân tích bài thơ việt bắc

bài văn mẫu phân tích bài thơ việt bắc
Bài văn mẫu phân tích bài thơ việt bắc

Phân tích bài thơ việt bắc ( Tố Hữu)

(Bài văn mẫu số 1)

Tố Hữu là một nhà thơ chiến sĩ, ông thường viết về những vấn về trong chính trị của đất nước, của dân tộc nhưng không hề khô khan, cứng nhắc mà rất lại giản dị, thấm thía, đi vào lòng người. Nổi bật nhất trong các sáng tác của nhà thơ đi đầu trong nền thơ ca Cách Mạng này là bài thơ Việt Bắc. Bài thơ viết về những tình cảm sâu đậm của những người chiến sĩ với đồng bào nơi đây, là nỗi lòng lưu luyến khi phải chia ly và trở về với miền xuôi xây dựng xã hội chủ nghĩa của người lính.

   Chiến dịch Điện Biên Phủ kết thúc vào tháng 7/1954, hiệp định Giơ – ne – vơ được kí kết. Hòa bình lập lại, miền Bắc hoàn toàn được giải phóng và bắt đầu xây dựng cuộc sống mới. Khi ấy, vào tháng 10 năm 1954, Trung ương Đảng và Chính Phủ đã rời chiến khu Việt Bắc – thủ đô của gió ngàn để trở về miền xuôi, những người chiến sĩ cũng phải tạm biệt người dân nơi đây để trở về Hà Nội, trong sự lưu luyến, bịn rịn của người ra đi và kẻ ở lại. Trước cuộc chia ly đầy nghĩa tình  ấy, Tố Hữu đã viết bài thơ Việt Bắc, để tái hiện lên những ân tình thủy chung của các cán bộ, chiến sĩ với những người đồng bào, người đã cưu mang, đùm bọc họ trong suốt những năm tháng kháng chiến gian khổ, ác liệt.

   Mở đầu bài thơ là hình ảnh chia ly của chiến sĩ và người dân Việt Bắc:

“Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không?
Nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn”

Ngay từ khi sử dụng thể thơ lục bát là thể thơ truyền thống của dân tộc, nhà thơ Tố Hữu đã gợi lên một sự thân quen, gần gũi đối với bạn đọc. Cách xưng hô “mình”, “ta” giữa những người lính và đồng bào đã cho thấy sự gắn bó thắm thiết, thủy chung. Mình và ta giống như vợ và chồng, mà tình nghĩa vợ chồng thì luôn thủy chung son sắt, khó có thể nào phai mờ được. “Mười lăm năm” là khoảng thời gian mà người lính đã gắn bó với chiến khu. Đó là một quãng thời gian rất dài, hậu phương và tiền tuyến cùng đoàn kết, hỗ trợ nhau để đánh bại kẻ thù. Bởi vậy cho nên trước lúc rời xa nơi này, chỉ cần nhìn những hình ảnh “núi”, “sông” thôi là cả một bầu trời quá khứ, bầu trời ký ức như đang ùa về trong nỗi lòng của người ra đi, phải từ biệt gia đình thứ hai của mình.

Cuộc chia ly ấy được hiện lên với tâm trạng đầy lưu luyến, bịn rịn của cả người ở lại và kẻ ra đi:

“Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biêt nói gì hôm nay”

Người chiến sĩ cất bước ra đi, nhưng trong tâm trí của họ luôn thấy văng vẳng bên tai những tiếng gọi tha thiết của đồng bào. Họ như không muốn phải chia tay các anh, với những người đã gắn bó với mình. Trạng thái bồn chồn diễn tả một tâm trạng khó nói, không nỡ rời xa. Khi cầm tay nhau để nói lên lời từ biệt, có biết bao nhiêu điều muốn nói, muốn gửi gắm và nhắn nhủ với nhau nhưng họ lại không thể nào cất lên thành lời. Bởi lúc này, cảm xúc bỗng dâng trào, cổ họng như nghẹn lại, họ thấy sao mà xúc động quá, sao mà buồn lòng quá, cả một chuỗi ký ức hào hùng đành phải khép lại từ đây, để trở về với những người thân yêu đang ngày đêm chờ mong họ ở quê nhà.

   Người ở lại gợi nhắc cho người ra đi về những kỷ niệm gắn bó từ thuở còn khó khăn:

“Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù
Mình về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?
Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già
Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son
Mình về, còn nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh
Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?”

Bao nhiêu những hình ảnh của quá khứ gian lao, khổ cực mà nghĩa tình hiện về trong miền ký ức của người ở lại. Người ở lại nhắc với người ra đi về những ngày tháng “mưa nguồn suối lũ” khi thiên nhiên và thời tiết nơi đây khắc nghiệt vô cùng, về những hôm “miếng cơm chấm muối”  sẻ chia ngọt bùi, những căn nhà “hắt hiu lau xám” thân thuộc trong mỗi cuộc hành quân của người ra đi. Trong những năm tháng chiến đấu gian nan, khổ cực dưới điều kiện thời tiết khắc nghiệt, thiếu thốn đủ thứ  “ăn không đủ no, mặc không đủ ấm” thì người chiến sĩ đã được đồng bào ta bao bọc, chở che như những người anh em ruột thịt trong gia đình. Người ra đi có nhớ hay chăng, những ân tình ấy sau này liệu có lãng quên đi được hay không?  “Ta” khẳng định sự thủy chung, son sắt với “mình”: 

“Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh”

  Dù có phải chia xa, nhưng cái tình nghĩa gắn bó suốt bao nhiêu năm dài đằng đẵng giữa “ta” và “mình” vẫn còn đó, vẫn vẹn nguyên,  vẫn thắm thiết tình quân dân. Người ở lại như càng tha thiết, lưu luyến hơn khi khắc họa ra một loạt những kỷ niệm không thể nào quên được với những người chiến sĩ:

“Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu. . .
Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia sông Ðáy, suối Lê vơi đầy
Ta đi, ta nhớ những ngày
Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi…

Thương nhau, chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng
Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Ðịu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô
Nhớ sao lớp học i tờ
Ðồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan
Nhớ sao ngày tháng cơ quan
Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo.
Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
Chày đêm nện cối đều đều suối xa… “

Những địa danh ấy gắn liền với những kỷ niệm như khắc họa thêm một dấu ấn đậm sâu trong nỗi nhớ nhung sâu sắc của người ra đi và kẻ ở lại: “Ngòi Thia, sông Đáy”. Nỗi nhớ giữa quân và dân chẳng khác nào nỗi nhớ người yêu đậm sâu và da diết. Từng bữa cơm ngập tràn tiếng cười, từng đêm trăng sáng cùng nhau chuyện trò hay cả những khi ngắm nhìn các em nhỏ học hành, rồi giây phút giải lao thắm đượm bài ca người lính. Trong không gian là núi rừng Tây Bắc bao lao, hùng vĩ, hình ảnh con người hiện lên chân thật với vẻ đẹp của lao động, của sự chiến đấu anh dũng nhưng cũng không kém phần tình tứ và nên thơ. Người chiến sĩ và nhân dân đã san sẻ cho nhau từng củ khoai, củ sắn và đắp chung mảnh chăn trong những đêm lạnh giá nơi núi rừng hoang vu. Một ký ức đậm sâu và khăng khít không thể nào mà chia xa ngay được.   Đáp lại những lời thơ tình tứ của người ở lại, người ra đi cũng đem hết nỗi lòng của mình bày tỏ với người dân nơi đây:

“Ta về, mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Ðèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung. “

Cách đối đáp của hai bên thật khéo léo, thiết tha. Nếu như người ở lại hỏi rằng: “Mình về, mình có nhớ ta” thì người ra đi cũng đáp trả rất tương đồng “Ta về, mình có nhớ ta”. Cả dân và quân đều chung cảm giác quyến luyến, bịn rịn trong giây phút nói ra lời từ biệt thiêng liêng và ý nghĩa này. Người ở lại đã vẽ lên một bức tranh tứ bình thật đẹp. Con người Tây Bắc hiện lên thật đẹp qua hình ảnh lao động chăm chỉ và đáng ngợi ca. Vào mùa xuân, thiên nhiên Tây Bắc được khắc họa với những bông hoa mơ nở trắng rừng. Trên nền của bức tranh ấy là hình ảnh của những con người cần cù, chăm chỉ với công việc đan nón tỉ mỉ, kì công. Sang đến mùa hạ, khi tiếng ve kêu râm ran, tác giả lại gợi ra hình ảnh “rừng phách đổ vàng”, cả một không gian như ngả sang một màu vàng chói lọi của nắng hạ, nhưng dưới ánh nắng ấy vẫn là hình ảnh con người. Nhưng ở đây là hình ảnh người con gái dịu dàng, nữ tính đang hái những búp măng rừng. Rồi qua mùa thu với “ánh trăng rọi hòa bình” và mùa đông là “hoa chuối đỏ tươi”. Cả bốn mùa của tự nhiên  nơi đây đều đẹp, đều tình tứ trong cái nhìn của người ra đi khi nhớ về những người ở lại. Đặc biệt là khi bị bọn giặc vây bắt:

” Nhớ khi giặc đến giặc lùng
Rừng cây núi đá ta cùng đánh tây
Núi giăng thành lũy sắt dày
Rừng che bộ đội rừng vây quân thù

Mênh mông bốn mặt sương mù
Ðất trời ta cả chiến khu một lòng.
Ai về ai có nhớ không?
Ta về ta nhớ Phủ Thông, đèo Giàng
Nhớ sông Lô, nhớ phố Ràng
Nhớ từ Cao-Lạng nhớ sang Nhị Hà…”

Núi rừng và con người Tây Bắc đã bảo vệ, chở che và giúp đỡ những người chiến sĩ vượt qua khỏi sự săn lùng của quân giặc. Tình quân dân hiện lên thật đoàn kết, gắn bó hơn bất cứ lúc nào:

“Những đường Việt Bắc của ta
Ðêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Ðèn pha bật sáng như ngày mai lên.
Tin vui chiến thắng trăm miền
Hòa Bình, Tây Bắc, Ðiện Biên vui về
Vui từ Ðồng Tháp, An Khê
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng. ” 

Nhà thơ Tố Hữu đã liệt kê một loạt những địa danh “Hòa Bình, Tây Bắc, Đồng Tháp, Điện Biên…” để nhấn mạnh rằng hòa bình đã đến thật rồi, trên khắp dải đất miền Bắc này. Những chặng đường không nhiều cũng chẳng ít, nó đủ để họ thấu hiểu và chia sẻ cùng nhau. Hai đoạn thơ cuối mở ra hình ảnh thiên nhiên thật tươi đẹp khi họ cùng nhau bàn về việc nước, về tương lai của dân tộc:

“Ai về ai có nhớ không?
Ngọn cờ đỏ thắm gió lồng cửa hang.
Nắng trưa rực rỡ sao vàng
Trung ương, Chính phủ luận bàn việc công
Ðiều quân chiến dịch thu đông
Nông thôn phát động, giao thông mở đường
Giữ đê, phòng hạn, thu lương
Gửi dao miền ngược, thêm trường các khu. . .

Ở đâu u ám quân thù
Nhìn lên Việt Bắc: Cụ Hồ sáng soi
Ở đâu đau đớn giống nòi
Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền.
Mười lăm năm ấy ai quên
Quê hương cách mạng dựng nên Cộng hòa
Mình về mình lại nhớ ta
Mái đình Hồng Thái cây đa Tân Trào. “

Lá cờ đỏ sao vàng, quốc kỳ của đất nước Việt Nam ta hiện lên thật đẹp, thật hùng vĩ đồng hành cùng với đó là hình ảnh của vị cha già đáng kính của dân tộc – Hồ Chủ Tịch. Đoạn thơ gợi nhắc tới công lao của Đảng và bác Hồ kính yêu đã lãnh đạo nhân dân ta giành được thắng lợi, giành được nền độc lập, tự do cho đất nước. Người ở lại và người ra đi không những chỉ nhớ về kỷ niệm mà họ đã cùng nhau trải qua mà họ còn nhớ đến công lao to lớn của người đã dẫn dắt cả dân tộc có được ngày hôm nay. Thắng lợi ấy khiến cho bất cứ ai cũng sẽ thấy biết ơn và cảm phục tinh thần của những người chiến sĩ đã chiến đấu anh dũng, hy sinh xương máu cho Tổ Quốc.

   Việt Bắc là một bài thơ rất dài, nó là lời đối đáp giữa người ở lại và người ra đi, thể hiện sự ngậm ngùi, quyến luyến, nỗi nhớ nhung khi phải chia tay nhau, từ biệt những ngày tháng gian lao, vất vả để xây dựng một cuộc sống mới – một cuộc sống ấm no, hạnh phúc và không có bóng dáng quân thù. Cảm động biết bao về tình cảm sâu đậm, nghĩa tình của quân và dân ta trong những năm tháng làm lên lịch sử!

   Tố Hữu đã đưa những vấn đề chính trị khô khan vào thơ của mình bằng những điều giản dị và mộc mạc nhất, khiến cho người đọc không cảm thấy bị gò bó, khó cảm nhận mà ngược lại lại cảm thấy rất đỗi thân quen, chứa chan nhiều cảm xúc. Từ bài thơ, nhà thơ cũng ngầm khẳng định rằng với tinh thần đoàn kết, đồng lòng của cả dân tộc sẽ giúp cho ta chiến thắng bất cứ một mối nguy hại nào dám động đến hòa bình của Tổ Quốc. Ta sẽ trân trọng hơn những giá trị và tình cảm cao đẹp của người Việt dành cho nhau.

Chi tiết bài văn mẫu phân tích bài thơ việt bắc
Chi tiết bài văn mẫu phân tích bài thơ việt bắc

Phân tích bài việt bắc – Tố Hữu

(Bài văn mẫu số 2)

Tố Hữu (1920-2022) ông được biết đến là lá cờ đầu trong thơ ca cách mạng Việt Nam. Hồn thơ Tố Hữu chính là sự kết hợp hài hòa giữa cuộc đời cách mạng và cuộc đời thơ. Chính vì vậy mà khi đọc các tác phẩm của nhà thơ Tố Hữu người đọc có thể thấy được những dấu mốc Lịch sử quan trọng của đất nước. Nói về các tác phẩm thơ của Tố Hữu có người đã ví nó như một thước phim quay chậm về những trang sử vẻ vang của dân tộc. “Việt Bắc” chính là một bài thơ như thế.

“Việt Bắc” được sáng tác vào năm 1954 khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp vừa kết thúc thắng lợi. Đây là lúc mà các cơ quan trung ương Đảng và chính phủ trở về Hà Nội từ chiến khu Việt Bắc. Tố Hữu đã tái hiện lại hình ảnh cuộc chia tay đầy lưu luyến giữa những người cán bộ, chiến sĩ với nhân dân Việt Bắc sau một thời gian dài sống, chiến đấu và gắn bó cùng nhau trải qua mọi gian khổ. Trong bài thơ tác giả đã sử dụng thể thơ lục bát truyền thống của dân tộc kết hợp lối hát đối đáp như ca dao dân ca Việt Nam để tái hiện lại cuộc chia tay đầy lưu luyến giữa những người chiến sĩ cách mạng và nhân dân Việt Bắc.

Người ở lại bao giờ cũng dành nhiều tình cảm, niềm nhớ thương cho người ra đi vì thế mà ngay mở đầu Việt Bắc, Tố Hữu đã để người ở lại với những câu thơ rất tinh tế:

“Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?”

Câu mở lời đầu tiên giống như lời chia tay của những cặp tình nhân đầy ý nhị mà sâu sắc. Nhà thơ đã vô cùng khéo léo khi mượn sắc màu tình yêu để thể hiện tình cách mạng. Cách sắp xếp câu chữ, “mình” mở đầu câu thơ và “ta” kết thúc câu thơ cũng đã gián tiếp thể hiện được sự xa cách, nhớ nhung. Chữ “nhớ” được nhắc đi nhắc lại ba lần đã mở ra một dòng cảm xúc lưu luyến, nhớ nhung, tình nghĩa của toàn bài thơ.

Đáp lại tấm lòng của người ở lại, người đi cũng đã thể hiện tình cảm của mình qua:

 

“Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”

Tiếng lòng của người ở lại đã khiến người ra đi không khỏi bồn chồn, xúc động. Tất cả điều đó đã khơi dậy lại rất nhiều kỉ niệm khó quên trong tâm trí của mỗi người chiến sĩ. Nỗi niềm ấy khiến cho cuộc chia ly trở lên bịn rịn, lưu luyến hơn. Nó như một sợi dây níu kéo giữa người ở và người đi. Mười lăm năm dài đằng đẵng đã gắn kết con người lại với nhau. Họ đã cùng nhau chung sống, cùng nhau trải qua biết bao khó khăn,vất vả chia sẻ cho nhau từng miếng cơm, manh áo để đến giờ phút chia ly cảm xúc dâng trào thành câu chữ:

 

“Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh”

Lúc này, ‘ta với mình” – “mình với ta” như hòa quyện vào làm một, cộng hưởng với nhau thành một khối thống nhất, không tách rời. Hai chữ “đinh ninh” như một sự khẳng định chắc nịch về tình cảm mà người ra đi dành cho những người ở lại. Đó là một thứ tình cảm thiêng liêng, cao cả, trân quý không gì có thể thay thế được.

Trở về với cuộc sống thành thị, rời xa Việt Bắc, những người cán bộ chiến sĩ mang theo một nỗi nhớ núi rừng, nhớ những ngày tháng gian khổ, nhớ những kỷ niệm thời kháng chiến gian khó mà nghĩa tình. Một bức tranh tứ bình nhiều màu đã phác họa lên một bức tranh vùng cao sinh động với những hình ảnh gần gũi, quen thuộc. Trong bức tranh ấy có màu xanh của núi rừng, màu đỏ của hoa chuối và sắc trắng tinh khôi của hoa mơ. Không chỉ là màu sắc, bức tranh còn rộn rã âm thanh của tiếng ve, ánh sáng lấp lánh của ánh trăng hiền hòa. Trong bức tranh sinh động đó, hình ảnh con người được tái hiện trong hình ảnh lao động khỏe khoắn: “Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang” hay “Nhớ cô em gái hái măng một mình”. Hình ảnh con người hiện lên một vẻ đẹp thật giản dị, mộc mạc giữa núi rừng. Thiên nhiên đầy màu sắc cùng hình ảnh lao động đã làm lên một đoạn thơ trữ tình nhất trong Việt Bắc.

Trong nỗi nhớ của mình, Tố Hữu không chỉ nhớ đến thiên nhiên, con người mà còn nhớ cả những năm tháng chiến đấu anh dũng, oanh liệt:

 

“Nhớ khi giặc đến giặc lùng
Rừng cây núi đá ta cùng đánh tây
Núi giăng thành lũy sắt dày
Rừng che bộ đội rừng vây quân thù”

Giọng điệu tha thiết đã chuyển sang giọng điệu hào hùng, đầy khí thế. Tố Hữu đã nhân hóa núi rừng Việt Bắc từ vô tri vô giác trở thành một sinh thể có linh hồn, thành một bức tường bảo vệ vững chãi cho nhân dân Việt Bắc cùng những người cán bộ kháng chiến thoát khỏi vòng vây của quân thù. Rồi Việt Bắc còn hiện lên với hình ảnh những cuộc hành quân sôi động. Ở cuối bài thơ, người đi đã đáp lại câu hỏi của người ở:

“Mình về mình lại nhớ ta
Mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào”

Qua lời đáp này người đi muốn nhắn nhủ với người ở lại rằng dù cuộc sống nơi thành thị có sung túc, đủ đầy thì tình cảm với những người dân nơi đây vẫn luôn còn mãi trong tim. Như vậy tác giả đã khép lại bài thơ bằng một tấm chân tình của người ở lại. Kết cấu đầu cuối tương ứng này một lần nữa đã khẳng định tấm lòng thủy chung son sắt của người đi và người ở.

Người ta gọi “Việt Bắc” là một điển hình trong thơ ca cách mạng bởi nó là sự kết hợp của chất trữ tình và chính trị. Không chỉ vậy, bài thơ còn thể hiện rất rõ tính dân tộc qua việc sử dụng thể thơ truyền thống cùng với lối hát đối đáp quen thuộc, giản dị mà gần gũi. Chính bởi những điều đó mà bài thơ đã khơi gợi lên những tình cảm cao đẹp nhất của truyền thống dân tộc đó chính là tấm lòng thủy chung son sắt.

“Việt Bắc” không chỉ là một câu chuyện nhỏ chứa đựng câu chuyện lớn. Nó không chỉ kể về cuộc chia tay giữa người cán bộ, chiến sĩ với đồng bào Việt Bắc mà nó còn cho người đọc thấy được mười lăm năm chiến đấu đầy khó khăn, gian khổ mà hào hùng của dân tộc. Bởi lẽ đó mà đã bao năm nay bài thơ Việt Bắc vẫn luôn có một vị trí nhất định trong tâm chí độc giả.

Tham khảo bài văn mẫu phân tích bài thơ việt bắc
Tham khảo bài văn mẫu phân tích bài thơ việt bắc

Chi tiết bài phân tích thơ việt bắc – Tác giả Tố Hữu

(Bài văn mẫu số 3)

Tố Hữu – một hồn thơ dân tộc, là nhà thơ trữ tình chính trị xuất sắc nhất  trong văn học Việt Nam. Có thể nói, những tác phẩm của ông không chỉ thể hiện những tư tưởng, lẽ sống của bản thân mà qua đó ta còn thấy được những sự kiện Lịch sử quan trọng của cách mạng nước nhà.

 

Sau chiến thắng Điện Biên Phủ vào tháng 10/1954 cán bộ kháng chiến nước ta đã phải rời Việt Bắc – thủ đô gió ngàn của dân tộc để trở về Hà Nội. Kẻ ở người đi, lòng không khỏi những nhớ thương nuối tiếc của tình quân dân trong mười lăm năm kháng chiến. Tố Hữu cũng là một trong những cán bộ kháng chiến từng sống, gắn bó với người dân và thiên nhiên Việt Bắc, nay phải trở về chia tay đầy ngậm ngùi và lưu luyến , với tâm trạng nỗi niềm ấy, ông đã Viết bài thơ Việt Bắc.

 

Bài thơ được viết theo thể lục bát, là một thể thơ truyền thống của dân tộc Việt Nam mang âm hưởng nhẹ nhàng, uyển chuyển thấm đẫm chất trữ tình của những câu ca dao. Trong cảm xúc lưu luyến, ngậm ngùi của buổi chia ly, việc sử dụng thể thơ này để biểu đạt tình cảm và hồi tưởng lại những kỉ niệm đã gắn bó với người dân, với núi rừng Việt Bắc là hoàn toàn hợp lý.

Mở đầu bài thơ là cuộc chia tay của những cán bộ  kháng chiến và những người dân nơi đây, là sự chia ly của kẻ đi người ở đầy lưu luyến, bồi hồi:

“Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn.”

Bài thơ “Việt Bắc” có hai giai điệu chính, câu “Mình về mình có nhớ ta” là giai điệu chính thứ nhất. Câu thơ mới đọc thoáng qua tưởng không có gì đặc sắc nhưng thật ra lại sâu sắc lắm. Một trăm cặp tình nhân khi chia tay cũng đều nói lời này. Tố Hữu mượn màu sắc của tình yêu đôi lứa mà phô diễn tình cảm cách mạng. Đại từ mình và ta đứng ở hai đầu và cuối câu thơ, đã thấy xa cách. Từ “nhớ” được lặp lại ba lần đã tạo ra âm hưởng chủ đạo của bài thơ: lưu luyến, nhớ thương, ân tình ân nghĩa.

Không chỉ đưa ra những câu hỏi, người dân Việt Bắc còn nhắc lại khoảng thời gian mười lăm năm gắn bó thiết tha. Mới đọc ta đã bắt gặp tứ thơ quen thuộc từ ca dao tình yêu nam nữ kiểu: “Mình về có nhớ ta chăng, Ta về ta nhớ hàm răng mình cười…” trong đó người tình chỉ nhắc đến kỉ niệm “Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng”. Nhưng đến cặp lục bát tiếp theo thì nó không chỉ còn là tình yêu đơn thuần nữa mà được thay thế bằng tình yêu thương gắn bó sâu sắc với với mảnh đất quê hương Việt Bắc. Nhớ núi, nhớ rừng thực chất là nhớ ngọn nguồn của cuộc cách mạng.

Trước tâm trạng, nỗi niềm bộc bạch đã bày tỏ của Việt Bắc, người đi im lặng lắng nghe:

“Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ bồn chồn bước đi”

Người đi im lặng là để tri âm, để tiếng ai từ từ ngân vang lắng sâu vào trong tâm hồn mình cho thật vẹn tròn, đầy đủ. Lặng im nhưng không kém phần mãnh liệt.

Nhịp thơ đang đều đặn, nhịp nhàng nhưng đến đây như cũng vì chút bối rối trong lòng mà thay đổi. Người về đã lặng đi trước những câu hỏi nặng tình nặng nghĩa của Việt Bắc:

“Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay.”

Trong thời khắc chia tay sau một thời gian dài gắn bó, có biết bao nhiêunhững kỷ niệm ngọt bùi, sâu nặng, có biết bao điều để nói nhưng không thể nói đủ, nói trọn vẹn cùng nhau. Vì thế mà lòng người cũng bâng khuâng, bước chân cũng bồn chồn, và mặc dù người đi đã không trực tiếp trả lời câu hỏi của Việt Bắc nhưng hình ảnh áo chàm và hành động cầm tay đó đã trả lời thay cho tất cả, nó chất chứa cảm xúc sâu lắng của cả người đi và kẻ ở.

Việt Bắc lại hỏi:

 “Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù
Mình về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?”

 

Nhớ đến Việt Bắc là nhớ đến những tháng ngày đầy gian khổ và sự hy sinh: “Mưa nguồn suối lũ những mây cùng mù” khó khăn gian khổ thật nhiều nhưng cán bộ chiến sĩ và nhân dân đồng cam cộng khổ, cùng có một mối thù sâu nặng với kẻ thù xâm lược: “Miếng cơm chấm muối mối thù nặng vai”. Đồng thời khi nhớ đến Việt Bắc cũng là nhớ đến nghĩa tình đồng bào sâu nặng. Người về khiến núi rừng cũng trở lên trống vắng, ngẩn ngơ, các điệp từ “mình về”, “mình đi” được nhắc đi nhắc lại nhiều lần một cách tha thiết khiến cho hình ảnh Việt Bắc hiện ra từ trong khói sương của hoài niệm, của tâm trạng chất chứa nhớ nhung trở lên rõ nét và rõ tình hơn.

 

Vẫn còn là lời hỏi của Việt Bắc, nhưng tứ thơ lại chuyển:

 

“Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già.
Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son”

 

Biện pháp tu từ nhân hoá “rừng núi nhớ ai” nói lên tình cảm thắm thiết, măn nồng của Việt Bắc với những người kháng chiến. Mình về thì núi rừng Việt Bắc trở lên trống vắng “Trám bùi để rụng, măng mai để già”. Quả trám và măng mai là hai món ăn thường nhật của bộ đội và các cán bộ kháng chiến. Mượn cái thừa để nói cái thiếu, thật tài tình! Hình thức đối lập giữa cái bên ngoài (hắt hiu lau xám) và cái bên trong (đậm đà lòng son) biểu hiện chân thật một cuộc sống lam lũ, nghèo đói của người dân Việt Bắc, nhưng trong lòng thì vẫn thuỷ chung son sắt với cách mạng.

Cuối lời Việt Bắc lại hỏi người về:

“Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?”

Giai điệu chính thứ hai của bài thơ xuất hiện với câu: “Mình đi, mình có nhớ mình”. Nếu giai điệu một là đạo lý của dân tộc với tư tưởng ân nghĩa thì giai điệu thứ hai này là cách mạng. Việt Bắc nhắn nhủ người về là chẳng những “nhớ ta” mà còn phải “nhớ mình”, nói theo ngôn từ của tình yêu đôi lứa thì chẳng những phải “nhớ em” mà còn phải “nhớ anh” nữa. Cái “anh” mà hồi còn ở với em. “Mình” đã sống với “Ta” mười lăm năm, tình nghĩa sâu nặng biết mấy, anh hùng biết mấy! “Mình” với “Ta” đã viết lên những trang sử oai hùng của dân tộc “Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa”. Bây giờ xa cách, Mình có về thành thị thì nhớ đừng thay lòng đổi dạ với Ta, mà cũng đừng thay lòng đổi dạ với chính mình:

“Mình về thành thị xa xôi
Nhà cao, còn thấy núi đồi nữa chăng?
Phố đông, còn nhớ bản làng
Sáng đèn còn nhớ mảnh trăng giữa rừng?”

Để cho Việt Bắc ướm hỏi dè chừng như vậy là một cách vô cùng khéo léo, nhà thơ Tố Hữu đã dự báo những diễn biến tư tưởng trong hoà bình.

“Mình đi, mình có nhớ mình”

Đó chính là câu thơ hay nhất của bài thơ “Việt Bắc” mà cũng là một sáng tạo tuyệt vời của Tố Hữu. Đón hết tất cả những lời ân tình ân nghĩa của Việt Bắc, bây giờ người về mới mở lời. Lời người về cũng rất chí tình chí nghĩa:

“Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh,
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu…”

Hai đại từ ta – mình cứ xoắn xuýt, quấn quýt với nhau “Ta với mình, mình với ta” thật là nồng nàn. Ý nghĩa lại không rạch ròi, rành mạch để rồi nhập lại làm một:

“Mình đi, mình lại nhớ mình”

Đây chính là để trả lời cho câu hỏi: “Mình về mình có nhớ ta”. Diễn tả theo ngôn ngữ của tình yêu là “Anh đi anh lại nhớ em”. Nỗi nhớ của người đi thật là dào dạt, nghĩa tình thật là bất tận “Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu”. Người đi trả lời như vậy hẳn đã làm yên lòng người ở lại – Việt Bắc.

Như vậy là biến tấu của giai điệu một đã hình thành và được mở rộng đến vô cùng. Tất nhiên đấy chỉ là một thủ pháp để tác giả miêu tả mối quan hệ khăng khít giữa Việt Bắc và cách mạng, miêu tả lại bản anh hùng ca kháng chiến của quân và dân Việt Bắc.

Để xua tan đi những hoài nghi của người ở lại, người về phải nói những lời thật nồng thắm, tha thiết :

“Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương”

Từ “nhớ” được lặp lại hai lần và mỗi từ lại gợi lên không biết bao nhiêu là kỷ niệm thân thương giữa Ta với Mình. Những chi tiết nhỏ nhặt  cũng đã được hồi tưởng (mà cái nhỏ trong tình yêu lại chính là cái lớn).

“Thương nhau, chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng”

Con người Việt Bắc trong lòng người về mới đáng yêu làm sao:

“Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Địu con lên rẫy, bẻ từng bắp ngô.”

Một tiếng mõ trâu giữa rừng chiều, một tiếng chày đêm ngoài suối vang vọng mãi trong lòng người ra về:

“Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
Chày đêm nện cối đều đều suối xa…”

Nói gọn lại là người về nhớ vẻ đẹp thiên nhiên Việt Bắc thơ mộng hữu tình, nhớ con người Việt Bắc giản dị, đầy tình nghĩa và thủy chung.
Từ giọng điệu hào hùng, cuộc kháng chiến anh hùng của ta và mình lại được tái hiện trong hòai niệm của người về:

“Nhớ khi giặc đến giặc lùng
Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây
Núi giăng thành lũy sắt dày
Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù.”

Thiên nhiên Việt Bắc như có linh hồn là nhờ tác giả đã sử dụng phép nhân hóa một cách tinh tế. Núi rừng Việt Bắc tươi đẹp đã trở thành một lũy sắt bảo vệ và che chở cho bộ đội “vây”, “đánh” quân thù. Mỗi một cái tên núi, tên sông, tên phố, tên bản là một chiến công lừng lẫy của quân dân Việt Bắc. Rồi những đêm hành quân vất vả, những đoàn dân công, những đoàn xe vận tải lại tấp nập sôi động:

“Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên.”

Tác giả lại một lần nữa chuyển giọng điệu sang một giọng thơ trang trọng, thiêng liêng để diễn tả nỗi nhớ sâu sắc của người về đối với Trung ương Chính phủ – Cụ Hồ. Và trong trí nhớ của người về hình ảnh của Việt Bắc chính là quê hương cách mạng, là căn cứ địa kháng chiến, là niềm tin và là hy vọng của cả dân tộc.

Người về cũng không quên đáp lại câu hỏi gay cấn của Việt Bắc:

Mình về mình lại nhớ ta
Mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào”

Nghĩa là người về muốn nhắn nhủ với Việt Bắc là dù có xa cách dù là về thành thị xa xôi thì người cán bộ kháng chiến năm xưa vẫn luôn giữ gìn và phát huy phẩm chất tốt đẹp của người lính cách mạng.

Như vậy với biến tấu của giai điệu thứ hai, nhà thơ Tố Hữu đã khép lại phần một của bài thơ “Việt Bắc”. Và chủ đề chung thủy sắt son với cách mạng của bài thơ “Việt Bắc” đã đạt đến độ sâu sắc ngay trong phần một này.

“Việt Bắc” là một kiệt tác của Tố Hữu, nó cũng là kiệt tác của thơ ca cách mạng, thơ ca kháng chiến. Bài thơ thể hiện sự tài hoa nhiều mặt của nhà thơ Tố Hữu. Thể thơ lục bát được tác giả phô diễn những tâm tư, tình cảm, tư tưởng mới mà vẫn đậm đà bản sắc dân tộc. Lối hát đối đáp tạo lên giai điệu phong phú cho bài thơ. Nhiều biện pháp tu từ được tác giả vận dụng khéo léo, tài tình. Ngôn ngữ trong sáng, nhuần nhị và mang nhiều nét cách tân (đặc biệt là hai đại từ Ta và Mình). Tiếng nói yêu thương – nét nổi bật trong phong cách thơ của Tố Hữu – không có bài nào thấm thía hơn “Việt Bắc”. Bài thơ không chỉ là lời chia tay dạt dào xúc cảm mà nó còn là lời khẳng định chắc nịch về sự thuỷ chung son sắt của những người cách mạng, là khúc ca bất tận của tình yêu thương được viết với giọng điệu vừa trữ tình ngọt ngào, vừa sôi nổi thiết tha, trong sáng.

 

Từ bài Phân tích bài thơ Việt Bắc trên, hoctot.net.vn hy vọng rằng các bạn học sinh sẽ đạt được điểm cao môn Ngữ văn với những bài phân tích này. Chúc các bạn học tốt!

THAM KHẢO: