SOẠN VĂN BÀI THƠ DỌN VỀ LÀNG (NÔNG QUỐC CHẤN)

1786
Dọn về làng nông quốc chấn
Dọn về làng nông quốc chấn
5/5 - (3 bình chọn)

Bài thơ “Dọn về làng” của Nông Quốc Chấn trong chương trình học môn ngữ văn lớp 12 viết về quê hương trong những năm kháng chiến chống thực dân Pháp. Hãy cùng tham khảo bài phân tích tác phẩm Dọn về làng của Nông Quốc Chấn trong bài viết dưới để thấy được những mất mát, đau thương và những chiến thắng hào hùng, đầy vẻ vang của nhân dân, của đất nước trong kháng chiến, cùng với đó là niềm vui được giải phóng và niềm tin của tác giả vào một tương lai tươi sáng.

Dàn ý chi tiết phân tích tác phẩm Dọn về làng

  1. Mở bài

Giới thiệu khái quát về tác giả Nông Quốc Chấn

Bài thơ “Dọn về làng” viết về quê hương của nhà thơ trong những năm tháng kháng chiến đau thương mà anh dũng, đồng thời nói lên ý nghĩa của kháng chiến thắng lợi đối với đời sống và con người Tây Bắc.

  1. Thân bài

Niềm hân hoan chiến thắng (4 dòng thơ đầu)

  • Kết quả của cuộc chiến được diễn tả bằng những hình ảnh sống động, đậm lối tư duy và diễn đạt của người miền núi, mang một vẻ rất chất phác.
  • Cao Bằng, Lạng Sơn đã được giải phóng, quê hương đã được yên bình, đối với mỗi người dân miền núi thì đây là niềm hạnh phúc khôn tả, cuối cùng họ cũng có thể trở lại với ngôi làng yêu dấu để “Sửa nhà phát cỏ/Cày ruộng vườn, trồng lúa ngô khoai”.

Hồi tưởng về những đau thương mà anh hùng trong quá khứ của nhân dân miền núi trong kháng chiến

  • “Mấy năm qua quên… lại vắt bám đầy chân”: Bằng những hiểu biết thực tế Nông Quốc Chấn đã diễn tả chân thực cái nỗi khổ chạy giặc của đồng bào miền núi, những nỗi khổ khi băng rừng, lội suối trong kháng chiến vẫn còn in sâu trong trí nhớ:
  • “Súng nổ kia!…không biết lối bước đi”
    • Sự cướp bóc tàn bạo, điên cuồng của lũ giặc, phá lán, cướp quần áo…
    • Hình ảnh của người phụ nữ miền núi mạnh mẽ, kiên cường, nhạy bén, một mình gánh vác cả gia đình trong quá trình chạy giặc nguy hiểm.
  • “Làm sao bây giờ: ta phải chống…cha không biết nói nữa rồi”
    • Sự hy sinh mất mát đầy đau thương diễn ra ngay trước mắt, khắc sâu vào trong lòng những người dân ở nơi đây, từng người cha, người anh, người con bị giặc bắt đi, họ bị đánh đập dã man, nhưng trái tim họ vẫn thét lên những tiếng lòng yêu nước, căm ghét lũ giặc khôn cùng.

=> Lòng căm hận lũ giặc cướp nước, khiến nhân dân phải rơi vào cảnh lầm than đã trở thành nguồn động lực, là sức mạnh to lớn để đồng bào miền núi đứng dậy đấu tranh giải phóng quê hương.

  • “Chúng con còn thơ…băm xương thịt mày, tao mới hả”
    • Hình ảnh bi kịch tang thương của gia đình người phụ nữ Tày cũng là bi kịch của cả dân tộc.

=> Tất cả những nỗi thống khổ, nỗi gian lao chạy giặc vượt núi băng rừng, cùng với những hy sinh mất mát đẫm máu đã tụ lại thành nỗi căm thù sâu sắc, đến bước này rồi đồng bào ta sẽ không nhẫn nhịn, không chịu đựng nữa, phải biến nỗi oán hận này thành sức mạnh để giết hết lũ giặc Tây cướp nước.

  • “Hôm nay Cao-Bắc-Lạng cười vang…máu chảy từng vũng”
    • Khung cảnh hồi sinh, vươn lên mạnh mẽ cùng sức sống tiềm tàng mạnh mẽ của con người và mảnh đất Tây Bắc.
    • Người dân miền núi Tây Bắc bắt đầu xây dựng một cuộc sống mới, sau bao nhiêu đau thương mất mát, sau bao lần mưa bom bão đạn, bầu trời Tây Bắc nay đã xanh trở lại, khắp vùng Cao-Bắc-Lạng chỉ có tiếng cười vang, giòn giã và hân hoan niềm vui chiến thắng.
  • “Mặt trời lên sáng rồi mẹ ạ …con sẽ về trông mẹ”
    • Hình ảnh “mặt trời lên sáng rõ” tượng trưng cho một khởi đầu mới đầy hy vọng, người con đã lớn lên theo ánh mặt trời cách mạng mà ra chiến trường, chiến đấu để bảo vệ quê hương, cùng lời hứa chân thành, sâu sắc mang đậm âm hưởng của người dân tộc miền núi: “Ðuổi hết nó đi, con sẽ về trông mẹ”.
    • Đó là niềm tin về một chiến thắng, niềm tin về một mảnh đất hoàn toàn sạch bóng quân thù, nhân dân nơi nơi đều được hưởng một cuộc sống yên vui, thái bình, sẽ không còn chết chóc, không còn chiến tranh.
  1. Kết bài

Nêu cảm xúc cá nhân về bài thơ.

Sơ đồ tư duy phân tích bài thơ Dọn về làng

sơ đồ tư duy bài dọn về làng nông quốc chấn
Sơ đồ tư duy bài dọn về làng nông quốc chấn

Bài văn mẫu phân tích bài thơ dọn về làng

 

bài văn tham khảo phân tích dọn về làng nông quốc chấn
Bài văn tham khảo phân tích dọn về làng nông quốc chấn

Phân tích bài thơ dọn về làng

(Bài văn mẫu số 1)

Nông Quốc Chấn (1923-2002) là một nhà văn, nhà thơ người dân tộc Tày, ông là một trong những gương mặt tiêu biểu đại diện cho tầng lớp trí thức của các dân tộc thiểu số trưởng thành trong kháng chiến. Đóng góp chủ yếu cho nền văn học Việt Nam của Nông Quốc Chấn đó là thơ, với những cảm xúc hết sức chân thành mộc mạc, lời thơ toát lên hơi thở riêng biệt trong lối tư duy cũng như trong cách diễn đạt của dân tộc miền núi, hình ảnh thơ đầy giản dị, tự nhiên và mang đậm chất núi rừng Tây Bắc.

Chiến dịch biên giới thu đông năm 1950 kết thúc thắng lợi có ý nghĩa lịch sử vô cùng to lớn trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Hòa chung vào niềm vui của của bà con nhân dân miền núi và nhân dân cả nước Nông Quốc Chấn đã chắp bút và viết lên tác phẩm “Dọn về làng” . Bài thơ viết về chính quê hương của ông trong những năm tháng chiến đấu đầy đau thương mà anh dũng, đồng thời nêu lên những ý nghĩa to lớn của cuộc kháng chiến thắng lợi đối với đời sống cũng như con người vùng Tây Bắc.

Sau khi kháng chiến biên giới thu đông kết thúc thắng lợi bà con dân tộc Tày đã vui mừng, hớn hở dọn về làng trong niềm vui sướng, hân hoan hòa cùng với niềm vui chung của cả dân tộc, điều ấy được thể hiện rất rõ ràng trong những vần thơ đầu.

“Mẹ! Cao – Lạng hoàn toàn giải phóng

Tây bị chết bị bắt sống hàng đàn

Vệ quốc quân chiếm lại các đồn

Người đông như kiến, súng dày như củi.”

Sự phấn khởi, hân hoan ấy tràn ngập vào trong những vần thơ, đó là lời của người con sung sướng báo tin cho người mẹ “Mẹ! Cao-Lạng hoàn toàn giải phóng“, kết quả của cuộc chiến được diễn tả bằng một hình ảnh sống động, đậm lối tư duy và diễn đạt của người miền núi, mang một vẻ rất chất phác, rất hồn hậu. “Tây bị chết, bị bắt sống“- câu nói mang một nét hồn nhiên đậm chất người dân tộc, trong suy nghĩ của họ bọn Tây bị bắt nhiều lắm không phải là một con số cụ thể mà trong cái cách liên tưởng của người con đó phải tính là “hàng đàn“, đông như những đàn trâu, đàn bò mà họ vẫn thường chăn dắt.

Hình ảnh những anh vệ quốc quân tiến vào chiếm lại các đồn cũng được mô tả lại bằng các hình ảnh “đông như kiến“, vũ trang tầng tầng lớp lớp như những thanh “củi” thân thuộc mà họ vẫn thường vào rừng kiếm về. Cao Bằng, Lạng Sơn đã được giải phóng, quê hương đã yên bình, đối với mỗi người dân miền núi đó là niềm hạnh phúc khôn tả.

Cuối cùng họ cũng có thể trở về, trở về với ngôi làng yêu dấu để “Sửa nhà phát cỏ”, để “Cày ruộng vườn, trồng lúa ngô khoai”, để được vui vầy một cuộc sống ấm êm, để được hưởng cái niềm vui trọn vẹn trong những dịp tết tháng Giêng, rằm tháng 7. Sau khi báo tin chiến thắng Nông Quốc Chấn đã theo dòng hồi tưởng trở về những tháng ngày kháng chiến đầy gian khổ trong quá khứ.

“Mấy năm qua quên tết tháng Giêng,

quên rằm tháng bảy,

Chạy hết núi lại khe,

cay đắng đủ mùi

Nhớ một hôm mù mịt mưa rơi

Cơn gió bão trên rừng cây đổ

Cơn sấm sét lán sụp xuống nát cửa

Ðường đi lại vắt bám đầy chân.”

Nỗi vất vả chạy giặc của nhân dân miền núi được tác giả miêu tả lại một cách rất thực tế và sinh động, họ đã vội chạy giặc đến mức chẳng còn màng đến tết nhất, họ phải vượt đèo lội suối “hết núi lại khe“, phải nói là “cay đắng đủ mùi“. Những hôm trời nắng đường đi dẫu có nhiều chông gai cũng chẳng kinh hoàng bằng những hôm trời đổ cơn mưa “mịt mù”, con người đứng giữa thiên nhiên rộng lớn, phải cố gắng chống chọi với những bão tố, mưa sa, chống chọi với những cơn giận dữ của thiên nhiên nào là “cơn gió bão trên rừng cây đổ”, nào là những “cơn sấm sét” xé toang trời, lệch đất làm cho chiếc lán mới vừa dựng xong đã vội đổ.

Đôi chân trần phải leo hết núi này đồi kia, dẫm quanh sỏi đá, nhẵn mòn cả lối đi, lại gặp cả loài vắt hút máu, nghĩ thôi mà đã rùng mình. Ai đã gây lên cái nỗi khốn khổ vượt núi băng rừng, ai đã để người dân đồng bào miền núi phải bỏ làng, phải luồn lách vào rừng sâu? Chính là mũi súng ác độc của lũ giặc ác ôn, tàn nhẫn kia.

Súng nổ kia! Giặc Tây lại đến lùng.

Từng cái lán, nó đốt đi trơ trụi,

Nó vơ hết áo quần trong túi

Mẹ địu em chạy tót lên rừng

Lần đi trước, mẹ vẫy gọi con sau lưng

Tay dắt bà, vai đeo đẫy nải

Bà lòa mắt không biết lối bước đi.”

Kẻ thủ ác, chúng lấy tiếng súng nổ phá tan rừng núi, phá tan cả giấc ngủ của em, chúng lùng sục khắp nơi như những con thú điên cuồng, không tìm thấy ai chúng lại “đốt đi trơ trụi” từng cái lán, cướp đi cả những mảnh quần áo đã cũ mèm, ôi thật ghê tởm cái lũ giặc đớn hèn. Và cũng chính sự cướp phá điên cuồng ấy của lũ giặc, hình ảnh của người phụ nữ Tày đã hiện lên một cách vô cùng mạnh mẽ, kiên cường, một tay chèo lái cả gia đình, cùng với vẻ đẹp của sự nhạy bén khi “Mẹ địu em chạy tót lên rừng”.

Bóng lưng gầy yếu của người mẹ giờ đã trở thành trụ cột của cả gia đình khi mở đường rừng đi trước, lưng địu con nhỏ, tay thì vẫy con lớn, tay còn dắt theo cả người “bà lòa mắt không biết lối bước đi“, có thế mới thấy trong khó khăn vô vàn sức mạnh phi thường của con người đã được khai phá triệt để. Nhưng liệu họ có thể trốn như thế được bao lâu, bóng lưng của người mẹ sẽ còn trụ vững được bao lần, lúc này đây lòng căm thù lũ giặc cướp nước cướp nhà, khiến nhân dân rơi vào cảnh lầm than đã trở thành nguồn động lực, là sức mạnh to lớn để đồng bào miền núi quyết tâm đứng dậy đấu tranh giải phóng quê hương.

“Làm sao bây giờ: ta phải chống!

Giặc đã bắt cha con đi, nó đánh,

Cha chửi Việt gian, cha đánh lại Tây

Súng nổ ngay đì đùng một loạt,

Cha ngã xuống nằm lăn trên mặt đất

Cha ơi: cha không biết nói rồi…”

Bởi bao nhiêu sự hy sinh mất mát đau thương đang diễn ra ngay trước mắt, khắc sâu vào trong lòng mỗi người dân nơi đây, từng người cha, người anh, người con đang bị giặc bắt đi, họ bị đánh đập một cách dã man, nhưng trái tim của những con người anh hùng ấy vẫn thét lên những tiếng lòng yêu nước, căm ghét lũ giặc khốn kia đến tận cùng “Cha chửi Việt gian, cha đánh lại Tây“.

Sự nhục nhã, điền cuồng đã khiến cái lũ Tây ra tay thảm sát những người con của núi rừng Tây Bắc một cách tàn độc, hình ảnh “Cha ngã xuống nằm lăn trên mặt đất / Cha ơi: cha không biết nói rồi…” là một hình ảnh đau thương và ám ảnh trong tâm trí người ở lại, đặc biệt nó càng trở lên xót xa khi những hình ảnh hãi hùng, man rợ ấy lại lọt vào đôi mắt của con trẻ, còn gì dã man tàn nhẫn hơn khi đứa trẻ ấy chỉ mới nhận thức được rằng “cha không biết nói rồi“.

Chúng con còn thơ, ai nuôi ai dạy?

Không ai chống gậy khi bà cụ qua đời!

Mẹ ngồi khóc, con cúi đầu cũng khóc.

Sợ Tây nghe, mẹ dỗ “nín”, con im.

Lán anh em rải rác không biết nơi tìm

Không ván, không người đưa cha đi cất.

Mẹ tháo khăn phủ mặt cho chồng,

Con cởi áo liệm thân cho bố;

Mẹ con đưa cha đi nằm một chỗ

Máu đầy tay, trên mặt nước tràn…

Mày sẽ chết! Thằng giặc Pháp hung tàn

Băm xương thịt mày, tao mới hả.”

Bao đau thương phủ xuống để lại một bi kịch xót xa kẻ đầu bạc tiễn người đầu xanh, người vợ gầy mất chồng đau rứt cả ruột gan, bên cạnh là lũ con thơ dại vừa phải chịu kiếp mồ côi cha không còn ai nuôi dạy, rồi mai này sẽ trông cậy vào bàn tay ai gánh vác gia đình. Nỗi đớn đau ấy càng được bộc lộ rõ hơn trước cảnh đám tang sơ sài của người vừa ngã xuống trước mũi súng độc ác của thằng Tây, không ván đóng hòm, tấm khăn phủ mặt kia chính là chiếc khăn đội đầu của người vợ bấy lâu, áo liệm là chiếc áo con cũ mèm đã mặc đến sờn vai.

Hình ảnh “Mẹ và con đưa cha đi nằm một chỗ” đã tái hiện lên cảnh tiễn người đi đầy bi thương,  người về với lòng đất trong sự lạnh lẽo, đau thương, người ở lại bàn tay vẫn còn vương máu đỏ, đôi mắt đã nhòe đi vì nước mắt, còn nỗi đau nào hơn nỗi đau này nữa? Tất cả những nỗi khổ, nỗi gian lao khi chạy giặc phải vượt núi băng rừng, cùng với những hy sinh mất mát đẫm máu đã tụ lại thành nỗi uất hận sâu sắc, nỗi căm thù đến cực độ, đến bước này rồi đồng bào ta sẽ không nhẫn nhịn không chịu đựng nữa, phải biến nỗi oán hận này thành sức mạnh để giết hết cái bọn giặc Tây cướp nước:

Mày sẽ chết! Thằng giặc Pháp hung tàn

Băm xương thịt mày, tao mới hả”

Và cuối cùng với tinh thần anh dũng bất khuất, lòng quyết tâm diệt giặc của nhân dân ta, núi rừng Tây Bắc đã sạch bóng quân thù, những người đã nằm xuống cuối cùng cũng có thể yên tâm nhắm mắt, còn người ở lại cuối cùng cũng có thể trở về với ngôi làng dấu yêu, vui vầy cuộc sống thanh bình.

“Hôm nay Cao – Bắc – Lạng cười vang

Dọn láng, rời rừng, người xuống làng

Người nói cỏ lay trong ruộng rậm

Con cày mẹ phát, ruộng ta quang.

Ðường cái kêu vang tiếng ô tô.

Trong trường ríu rít tiếng cười con trẻ.

Mờ mờ khói bếp bay trên mái nhà lá.

Mặc gà gáy chó sủa không lo,

Ngày hai bữa rau ta có muối.

Ngày hai buổi không tìm củ pấu, củ nâu

Có bắp xay độn gạo no lâu,

Ðường ngõ từ nay không cỏ rậm,

Trong vườn chuối, hổ không dám đến đẻ con

Quả trên cành không lo tự chín tự rụng,

Ruộng sẽ không thành nơi máu chảy từng vũng”

Có thể nói 15 câu thơ cuối cùng này chính là khung cảnh hồi sinh, vươn lên mạnh mẽ với sức sống tiềm tàng mãnh liệt của con người và mảnh đất Tây Bắc. Người dân miền núi bắt đầu xây dựng lại cuộc sống mới, sau bao nhiêu đau thương mất mát, sau bao lần mưa bom bão đạn, bầu trời Tây Bắc nay đã xanh trở lại, khắp Cao-Bắc-Lạng giờ chỉ có tiếng cười vang, giòn giã, hân hoan niềm vui chiến thắng.

Giờ đây họ đã không cần phải ngày ngày chuyển lán, không cần phải vượt đèo băng suối trong rừng sâu để chạy giặc, người lớn thì lên nương phát rẫy chuẩn bị cho một mùa gieo trồng mới, còn trẻ con ở nhà thì vui đùa vô lo vô nghĩ, không còn phải giật mình vì tiếng súng nổ quanh đây. Trong đoạn thơ này nhà thơ đã tái hiện lại một cách đầy chân thực, tinh tế cảnh sinh hoạt của người dân tộc Tày, thật giản dị, đơn sơ, nhưng lại thanh bình hạnh phúc, giống những ngày  bọn giặc Pháp chưa đến lùng.

Mặt trời lên sáng rõ rồi mẹ ạ!

Con đi bộ đội, mẹ ở lại nhà,

Giặc Pháp, giặc Mỹ còn giết người cướp của trên đất nước ta.

Ðuổi hết nó đi, con sẽ về trông mẹ.”

Hình ảnh “mặt trời lên sáng rõ” tượng trưng cho một khởi đầu mới đầy hy vọng, người con lớn lên theo ánh mặt trời cách mạng mà đi ra chiến trường, chiến đấu bảo vệ quê hương, đất nước, cùng lời hứa chân thành, sâu sắc mang đậm âm hưởng của người dân tộc miền núi: “Ðuổi hết nó đi, con sẽ về trông mẹ“.

Đó là niềm tin về một chiến thắng, niềm tin về một đất sạch bóng quân thù, nhân dân khắp nơi đều được hưởng một cuộc sống yên vui, thái bình, sẽ không còn chết chóc, không còn chiến tranh, sẽ không còn những giọt nước mắt sinh ly tử biệt nào phải rơi xuống nữa, rồi con sẽ lại về bên mẹ đầy tha thiết, chân thành.

“Dọn về làng” của Nông Quốc Chấn là một bài thơ hay mang nhiều giá trị hiện thực sâu sắc tái hiện lại quá khứ đầy đau thương, hào hùng của dân tộc đồng thời thể hiện niềm vui mừng phấn khởi tột cùng khi nghe tin quê hương hoàn toàn được giải phóng, núi rừng Tây Bắc đã không còn phải nghe tiếng súng của bọn giặc, đồng thời ca ngợi sức sống tiềm tàng mạnh mẽ, sự hồi sinh và vực dậy nhanh chóng của các tỉnh miền núi phía Bắc và đồng bào nơi đây sau chiến tranh.

bài văn tham khảo phân tích dọn về làng nông quốc chấn
Bài văn tham khảo phân tích dọn về làng nông quốc chấn

Soạn bài đọc thêm dọn về làng – Bài Văn mẫu số 2

Nông Quốc Chấn là một gương mặt văn hóa tiêu biểu, đại diện cho tầng lớp trí thức các dân tộc thiểu số trưởng thành trong kháng chiến. Đóng góp nổi trội của ông cho nền văn học Việt Nam trong lĩnh vực sáng tác là thơ. Thơ của Nông Quốc Chấn mang một cảm xúc chân thành, chất phác, lời thơ toát lên nét riêng biệt trong lối suy tư và cách diễn đạt của người miền núi: giản dị, tự nhiên và giàu hình ảnh. Với những đóng góp to lớn của ông vào nền văn học nước nhà, vào năm 2000 ông đã được nhà nước trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật. “Dọn về làng” là một trong những sáng tác tiêu biểu của Nông Quốc Chấn viết về quê hương mình trong những năm tháng kháng chiến chống thực dân Pháp với nhiều đau thương mà anh dũng.

Bài thơ “Dọn về làng” thấm đượm cảm xúc và tình yêu thiết tha nồng nàn của tác giả đối với dân bản, với đất nước. Ông trân trọng và đồng cảm với những khó khăn, vất vả, những nỗi đau thương mất mát mà nhân dân ta phải gánh chịu, đồng thời ông cũng bày tỏ lòng căm thù trước tội ác tày trời của lũ giặc hung hãn. Và rồi, sau tất cả, chiến thắng trở về tay nhân dân, mọi người sơ tán nay đã được trở về với ngôi làng thân yêu và bắt đầu lại cuộc sống yên bình thuở xưa.

Mẹ ! Cao – Lạng hoàn toàn giải phóng

Tây bị chết bị bắt sống hàng đàn

Vệ quốc quân chiếm lại các đồn

Người đông như kiến, súng đầy như củi

Sáng mai về làng, sửa nhà phát cỏ

Cày ruộng vườn trồng lúa ngô khoai

Không có gì đau thương bằng chiến tranh, và cũng không có gì sung sướng hơn khi cuộc chiến tranh giành thắng lợi. Vượt qua bao gian nan vất vả, bao hy sinh xương máu, nhân dân hai miền Cao – Lạng đã hoàn toàn được giải phóng. Tiếng gọi “Mẹ !” – câu thơ đầu tiên được tác giả cất lên, một tiếng gọi thân thương mang đầy niềm hân hoan. Sau dấu chấm than đầy xúc cảm ấy là một niềm vui khôn tả khi những ngày chiến đấu gian khổ đã chấm dứt. Lũ Tây bị bắt, các đồn cũng đã chiếm lại được. Nhân dân nơi đây đã lập được một chiến công to lớn, mang lại niềm hạnh phúc cho chính mình, cho quê hương và  giải phóng mình khỏi ách áp bức nô lệ suốt bấy lâu:

Mấy năm qua quên tết tháng Giêng, quên rằm tháng bảy,

Chạy hết núi lại khe, cay đắng đủ mùi

Nhớ một hôm mù mịt mưa rơi

Cơn gió bão trên rừng cây đổ

Cơn sấm sét lán sụp xuống nát cửa

Ðường đi lại vắt bám đầy chân.

Súng nổ kia! Giặc Tây lại đến lùng.

Từng cái lán, nó đốt đi trơ trụi,

Nó vơ hết áo quần trong túi

Mẹ địu em chạy tót lên rừng

Lần đi trước, mẹ vẫy gọi con sau lưng

Tay dắt bà, vai đeo đẫy nải

Bà loà mắt không biết lối bước đi.

Làm sao bây giờ: ta phải chống!

Giặc đã bắt cha con đi, nó đánh,

Cha chửi Việt gian, cha đánh lại Tây

Súng nổ ngay đì đùng một loạt,

Cha ngã xuống nằm lăn trên mặt đất

Cha ơi: cha không biết nói rồi…

Chúng con còn thơ, ai nuôi ai dạy?

Không ai chống gậy khi bà cụ qua đời!

Mẹ ngồi khóc, con cúi đầu cũng khóc.

Sợ Tây nghe, mẹ dỗ “nín”, con im.

Lán anh em rải rác không biết nơi tìm

Không ván, không người đưa cha đi cất.

Mẹ tháo khăn phủ mặt cho chồng,

Con cởi áo liệm thân cho bố;

Mẹ con đưa cha đi nằm một chỗ

Máu đầy tay, trên mặt nước tràn…

Mày sẽ chết! Thằng giặc Pháp hung tàn

Băm xương thịt mày, tao mới hả.

Giặc đến đã phá tan cuộc sống yên bình của dân làng, thôn xóm. Những dịp Tết tháng riêng, rằm tháng bảy lẽ ra sẽ được tổ chức náo nức, nhộn nhịp nhưng lũ giặc đến, chúng càn quét từ cái quần trong túi, chúng đốt hết lán chỉ còn lại trơ trụi bãi đất không, chúng đã ra tay sát hại dân lành một cách tàn ác, nhẫn tâm. Người dân phải vất vả chạy giặc, trèo đèo lội suối, hết núi – lại khe, nói chung là “cay đắng đủ mùi”. Rồi những hôm trời mưa “mịt mù”, đất lở làm sụp cả lán, những cơn sấm sét đánh ngang trời, rồi còn thêm cả vắt rừng… Ôi, xót xa làm sao! Hình ảnh người dân chạy giặc được tác giả tái hiện lên một cách chân thực, chân thực đến mức đau thương. Không còn gì có thể diễn tả được hết những tội ác mà thực dân Pháp đã gây ra.

Hình ảnh “Người mẹ địu em chạy tót lên rừng” đã lấy đi bao nước mắt của bạn đọc. Những đứa trẻ con chúng có tội tình chi mà phải vướng vào cuộc trốn chạy đầy hiểm nguy, gian khổ ấy. Cũng từ đó mới thấy được sức mạnh phi thường của người người mẹ “lưng địu con nhỏ”, “ tay vẫy con lớn”, tay dắt theo cả người “bà lòa mắt không biết lối đi”. Một mình người mẹ gánh vác cả gia đình.  Nhưng liệu họ có thể trốn chạy được bao lâu?

Dân bản thì xôn xao, náo loạn như bầy chim vỡ tổ, không biết phải chạy đi đâu về đâu. “Làm sao bây giờ: ta phải chống!”. Đúng vậy, bằng mọi giá ta phải chống lại lũ giặc tàn ác kia. Chúng đã gây lên biết bao tội ác cho dân lành. Chúng bắt cha con đi, đánh đập dã man. “Cha chửi Việt gian, cha đánh lại Tây”, “Cha ngã xuống nằm trên mặt đất”, “Cha ơi: cha không biết nói rồi…”, xót xa hơn khi hình ảnh man rợ ấy xảy ra ngay trước mắt con trẻ, nó còn chưa nhận thức được điều gì chỉ biết rằng  “cha không biết nói rồi” Ôi ! Còn nỗi đau nào hơn thế nữa. Một đàn con thơ ai nuôi dạy bây giờ?

Không còn ai chống gậy khi bà cụ qua đời ! Cha là chỗ dựa, là trụ cột vững mạnh nhất trong nhà nhưng nay cha đã ngã xuống rồi. “Mẹ ngồi khóc con cúi đầu cũng khóc đau đớn thay, giờ chỉ có nước mắt tiễn đưa cha đi. Cha vì bảo vệ công lý cho dân làng, cho đàn con thơ mà chúng nó nỡ lòng bắt giết không tiếc thương. Cảnh khó nghèo, đến cuối đời cha cũng chẳng được đủ đầy, trọn vẹn.

Không ván, không người đưa cha đi chôn cất

Mẹ tháo khăn phủ mặt cho chồng

Con cởi áo liệm thân cho bố

Mẹ con ẵm cha đi nằm ở chân rừng

Máu đầy tay, nước tràn đầy mặt…

 

Chiếc khăn ngày nào mà cha tặng mẹ làm kỷ vật của tình yêu, nay lại chính chiếc khăn ấy mẹ dùng nó che mặt cha trong phút chia xa vĩnh viễn. Từ nay chỉ còn mẹ một mình lắng lo cho đàn con thơ dại và người mẹ già yếu ớt. Cha đi rồi, chúng con mất đi chỗ dựa vững chắc, giờ mẹ phải đứng lên thay cha gánh vác tất cả. Nén nỗi đau thương, mẹ ôm cha tới tận chân rừng, gửi cha lại cho thần rừng thần núi, hẹn kiếp sau gia đình ta lại sum vầy đông đủ.

Ôi! Có biết bao nhiêu người cha đã ngã xuống trong tiếng súng độc tàn của lũ giặc, bao nhiêu người vợ đau rứt ruột gan khi mất chồng, bao nhiêu ánh mắt của trẻ thơ vô hồn gào khóc gọi tên cha? Chúng giết cha, chúng phá nước. Nỗi căm hờn, nỗi uất hận này, “Tao phải băm xương thịt mày, tao mới hả!” Và đúng như tinh thần quyết tâm ấy, nhân dân Cao – Lạng đã dành được chiến thắng vẻ vang.

 

“Hôm nay Cao – Bắc – Lạng cười vang

Dọn lán, rời rừng, người xuống làng

Người nói cỏ lay trong ruộng rậm

Con cày mẹ phát, ruộng ta quang.

Ðường cái kêu vang tiếng ô tô.

Trong trường ríu rít tiếng cười con trẻ.

Mờ mờ khói bếp bay trên mái nhà lá.

Mặc gà gáy chó sủa không lo,

Ngày hai bữa rau ta có muối.

Ngày hai buổi không tìm củ pấu, củ nâu

Có bắp xay độn gạo no lâu,

Ðường ngõ từ nay không cỏ rậm,

Trong vườn chuối, hổ không dám đến đẻ con

Quả trên cành không lo tự chín tự rụng,

Ruộng sẽ không thành nơi máu chảy từng vũng.

Bộ đội đỡ phải đi thung lũng núi rừng,

Ra đường xe, hát nói ung dung

Từng đoàn người dắt lá cây tiến bước

Súng bên vai, bao gạo buộc bên vai,

Chân đi có giày không sợ nẻ

Trên đầu có mũ che nắng mưa.”

Sau chiến tranh, gia đình tuy không còn nguyên vẹn nhưng từ nay cũng sẽ không mất thêm người nào nữa. Niềm vui hân hoan không gì diễn tả được. Ai nấy cũng đều hào hứng bắt tay vào việc xây dựng lại một cuộc sống mới sau bao nhiêu ngày tháng quên Tết tháng riêng, quên rằm tháng bảy. Người lớn hăng say làm việc, trẻ nhỏ thì ríu rít tiếng cười làm rộn vang cả một vùng núi bao la và hùng vĩ. Sau chiến tranh, các con cũng đã cứng cáp hơn, trưởng thành hơn và quyết tâm đi theo tiếng gọi của Tổ quốc lên đường:

Mặt trời lên ! Sáng rõ rồi mẹ ạ !

Con đi bộ đội, mẹ ở lại nhà

Giặc Pháp, Mĩ còn giết người, cướp của trên đất ta

Đuổi hết nó đi, con sẽ về trông mẹ.”

Đứa con bé bỏng ngày nào nay đã thay cha cầm súng đánh giặc, trả lại yên bình cho gia đình, cho quê hương. Hình ảnh mặt trời dường như đã làm sáng cả bài thơ sau những hình ảnh đau thương do quân thù để lại. Ở dưới chân núi kia, cha sẽ mỉm cười hạnh phúc vì nay con đã trưởng thành, đã đi theo tiếng gọi của Cách mạng, quyết lấy lại công bằng cho cha, cho những người đã anh dũng hy sinh vì ngày hôm qua.

Xuyên suốt cả bài thơ, Nông Quốc Chấn đã thể hiện tình yêu quê hương, yêu đất nước sâu nặng qua những hình ảnh đầy chân thực và đậm chất dân tộc, giọng thơ hào hứng, vui tươi khi hòa bình được lập lại. Đồng thời ông cũng vạch rõ những tội ác mà bọn thực dân Pháp đã gây ra cho dân bản, cho quê hương ông.

Bài thơ “Dọn về làng” là một trong những minh chứng cho lịch sử nước nhà nói chung và Cao – Bắc – Lạng nói riêng, đó là lời ngợi ca cho tinh thần chiến đấu anh dũng của nhân dân trong hoàn cảnh khó khăn, thiếu thốn, vất vả. Thế hệ trẻ hôm nay hãy quyết tâm học tập thật tốt, rèn luyện đạo đức thật tốt để trở thành những người chiến sĩ giỏi trong thời bình và cùng dựng xây đất nước ngày một giàu đẹp hơn.

Bài văn tham khảo phân tích dọn về làng nông quốc chấn
Bài văn tham khảo phân tích dọn về làng nông quốc chấn

Soạn văn bài dọn về làng

Nông Quốc Chấn (1923-2002) là người dân tộc Tày ở tỉnh Bắc Cạn. Từ một ông giáo hiền lành, chất phác sớm được giác ngộ cách mạng và được rèn luyện trong khói lửa chiến tranh, ông đã trở thành một cán bộ trung kiên, một nhà hoạt động văn hóa và là một nhà thơ xuất sắc của Đảng và dân tộc ta.

   Bài thơ “Dọn về làng” được sáng tác trong chiến dịch Biên giới thu – đông năm 1950, là một tác phẩm tiêu biểu nhất của Nông Quốc Chấn. Nguyên tác bằng tiếng Tày, sau đó ông dịch ra tiếng phổ thông theo thể thơ tự do. Bài thơ viết về chính quê hương của nhà thơ trong những năm kháng chiến chống thực dân Pháp đầy đau thương mà anh dũng

   Nhà thơ đã sử dụng nghệ thuật tương phản giữa cái quá khứ đau thương với niềm vui chiến thắng và giải phóng để ca ngợi sự hồi sinh, sự vươn dậy mạnh mẽ của quê hương và của đồng bào các dân tộc Cao-Bắc-Lạng.

   Mở đầu bài thơ là tiếng người con gọi mẹ; gọi mẹ để báo tin vui, tin mừng chiến thắng:

“Mẹ! Cao – Lạng hoàn toàn giải phóng

Tây bị chết bị bắt sống hàng đàn

Vệ quốc quân chiếm lại các đồn

Người đông như kiến, súng đầy như củi”

   Đúng với cảm xúc chân thành và nét chất phác mang đậm nét đặc trưng của người dân tộc miền núi, tác giả đã tái hiện lại niềm vui tươi, hân hoan khi báo tin chiến thắng với người mẹ  bằng một giọng thơ hết sức tự nhiên, chân chất và hồn hậu. Ông kể lại lũ Tây bị bắt sống nhưng mà bị “bắt sống hàng đàn”, giống như đàn trâu, đàn bò mà họ thường hay chăn dắt. “Người đông như kiến” , “củi” những hình ảnh hết sức quen thuộc, gần gũi với con người nơi đây.  Một nét thơ đậm chất Nông Quốc Chấn.

   Từ niềm vui chiến thắng, đứa con đau đớn hoài niệm lại những năm tháng gian khổ, đau thương dưới ách kìm kẹp, chiếm đóng của quân giặc Pháp hung tàn.

   Trên bước đường trở về với ngôi làng cũ để “sửa nhà phát cỏ“, để “Cày ruộng vườn trồng lúa ngô khoai” ấy, đứa con bồi hồi nhớ lại:

“Mấy tháng năm qua quên tết tháng giêng, quên rằm tháng bảy,

Chạy hết núi khe, cay đắng đủ mùi”

   Những lễ tết từ lâu đời nay phải “quên đi! Những phong tục tập quán tốt đẹp của dân tộc ta cũng phải “quên” đi. Người dân nơi đây phải vất vả chạy giặc triền miên: “Chạy hết núi lại khe, cay đắng đủ mùi“.

Quên sao được những kỷ niệm đầy thương đau của những ngày tháng chạy giặc với biết bao gian khổ từ thiên tai, dịch họa. Mưa rừng mù mịt, gió bão đất lở làm cho chiếc lán mới dựng bị sụp xuống, những cơn sấm sét xé toang trời, rồi những con vắt rừng bám đầy chân. Ôi những ngày tháng khổ cực ấy. Thế mà lũ giặc vẫn lùng sục khắp nơi, đốt lán, cướp bóc, gây ra biết bao thảm cảnh:

“Súng nổ kia! Giặc Tây lại đến lùng,

Từng cái lán nó đốt đi trơ trụi

Nó vơ hết quần áo trong túi”…

   Đoạn thơ như một đoạn phim ngắn ghi lại cảnh xôn xao chạy loạn giữa rừng sâu của đồng bào các dân tộc vùng núi phía Bắc đất nước ta trong những năm đầu kháng chiến chống thực dân Pháp. Biện pháp liệt kê và tự sự như mở ra một không gian nghệ thuật với những chi tiết hiện thực rất chân thật và cảm động. Cảnh người mẹ chạy giặc, lưng vừa địu con nhỏ, tay vẫy em, tay lại dắt thêm cả “Bà lòa mắt không biết lối bước đi”. Hình ảnh người cha bị giặc bắt, “Cha chửi Việt gian, cha đánh lại Tây” rồi bị giặc đánh, giết một cách dã man:

“Súng nổ ngay đì đùng một loạt,

Cha ngã xuống nằm lăn trên mặt đất”

   Rồi cảnh chôn cất người chồng, người cha thân yêu đã ngã xuống dưới mũi súng của lũ giặc đầy nước mắt:

“Lán anh em rải rác không biết nơi tìm

Không ván, không người đưa cha đi chôn cất

Mẹ tháo khăn phủ mặt cho chồng.

Con cởi áo liệm thân cho bố,

Mẹ con ẳm cha đi nằm ở chân rừng

Máu đẫm tay, nước tràn đầy mặt…”

   Tất cả những hình ảnh đau đớn và thương tâm ấy đã được nhà thơ tái hiện lại một cách chân thực với nhiều máu và nước mắt. Sau tiếng khóc nấc nghẹn ngào là tiếng thét căm thù và uất hận vang lên:

“Mày sẽ chết! Thằng giặc Pháp hung tàn,

Băm xương thịt mày, tao mới hả”

   Qua đó, ta càng thấy rõ được sức mạnh, ý chí của đồng bào nơi đây: máu không thể nào dìm được chân lý, súng đạn của lũ giặc cướp nước, cướp nhà kia không thể nào khuất phục được nhân dân ta.

   Phần thứ hai của bài thơ nói lên niềm vui sướng hân hoan khi quê hương được giải phóng, được hồi sinh, hòa bình lập lại, và sức sống trỗi dậy của dân tộc ta vô cùng mạnh mẽ.

   Có bao âm thanh giữa không gian rộng lớn vùng Cao – Bắc – Lạng. Có tiếng “cười vang”, tiếng “người nói” và tiếng cười con trẻ “ríu rít” nô đùa. Có bao hình ảnh náo nức đáng yêu khi được trở về những ngày tháng yên bình như khi lũ giặc chưa đến:

“Hôm nay, Cao – Bắc – Lạng cười vang,

Dọn lán, rời rừng, người xuống làng,

Người nói cỏ lay trong ruộng rậm

Cuốc đất, dọn cỏ mẹ khuyên con”

   Cuộc sống như được hồi sinh, một cuộc sống bình yên đã trở lại với bà con nơi đây: “Mờ mờ khói bếp bay trên mái nhà lá“. Phải có biết bao nhiêu máu đổ xương tan mới có được cái ngọn khói lam chiều đáng yêu ấy.

   Nếu ở phần đầu bài thơ, tác giả đã nhắc lại chữ “không” đến sáu lần “ không biết lối bước đi”, “không biết nói rồi”, “không ai chống gậy…”, “không biết nơi tìm”, và “không ván không người đưa …”, để phản ánh những nỗi đau đè nặng lòng người, thì ở đoạn hai, điệp ngữ “không” lại tiếp tục xuất hiện bốn lần để làm nổi bật một hiện thực kháng chiến, đó là sự hồi sinh và sự vươn mình dậy đầy mạnh mẽ của dân tộc ta, của đồng bào các dân tộc Cao – Bắc – Lạng:

Từ nay không ngập cỏ lối đi.

Hổ không dám đẻ con trong vườn chuối

Quả trong vườn không lo tự chin, tự rụng

Ruộng sẽ không thành nơi máu chảy thành vũng.”

   Một lần nữa, Nông Quốc Chấn đã thành công khi sử dụng phép liệt kê, nêu lên hàng loạt những chi tiết rất thực, rất sống để nói lên niềm vui chiến thắng và sự hồi sinh của quê hương sau ngày giải phóng.

   Bốn câu thơ cuối là lời từ biệt mẹ già của đứa con lên đường ra chiến trận. Mẹ ở lại làm hậu phương, con ra tiền tuyến với lòng quyết tâm “đuổi hết” giặc Pháp, giặc Mỹ”. Hình ảnh “Mặt trời lên sáng rõ” mang hàm ý nói về sự thắng lợi của cuộc kháng chiến, của cách mạng, sự đổi thay to lớn và niềm vui dâng lên trong lòng mỗi người.

   Lời mẹ dặn con biết bao yêu thương thiết tha. Hành trình lên đường với đầy khí thế và dào dạt niềm tin:

“Mặt trời lên sáng rõ rồi mẹ ạ!

Con đi bộ đội, mẹ ở lại nhà,

Giặc Pháp, Mỹ còn giết người, cướp của trên đất ta

Đuổi hết nó đi, con sẽ về trông mẹ”

   Cái hay của “Dọn về làng” đó là ở giọng thơ mộc mạc, bình dị, chân thật với bao chi tiết chọn lọc cảm động. Nỗi đau thương thời giặc giã, hình ảnh người cha, người bà, người mẹ trong khói lửa đau thương, niềm vui hân hoan giải phóng và hình ảnh quê hương hồi sinh được nói lên một cách thật giản dị, chân thực, cảm động và mang một nét đáng yêu. “Dọn về làng” là một trong những thành tựu đáng tự hào của thơ ca Việt Nam trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Tự hào hơn nữa vì đó chính là lời ca, là bông hoa rừng đẹp và thơm của đứa con thân yêu người dân tộc Tày. Hơn nửa thế kỷ sau, bài thơ vẫn để lại cho chúng ta nhiều cảm xúc, dấu ấn khó quên. 

 

Xem thêm các bài văn mẫu lớp 12 khác: