Soạn bài hầu trời – Ngữ văn 11

1869
Soạn bài hầu trời
Soạn bài hầu trời
5/5 - (1 bình chọn)

Soạn Bài Hầu Trời chi tiết nhất (Soạn văn 11)

Về tác giả, tác phẩm

1. Tác giả Tản Đà

– Tản Đà (1889-1939) với tên khai sinh là Nguyễn Khắc Hiếu. 

  • Ông sinh ra và lớn lên thời buổi giao thời Hán học đã tàn mà Tây học cũng mới bắt đầu nên con người ông kể cả học vấn  lối sống với  sự nghiệp văn chương đều mang dấu ấn người của hai thế kỉ. 
  • Ông học Hán học từ nhỏ nhưng sau hai khóa thi Hương thì ông bỏ thi chuyển sang sáng tác bằng chữ quốc ngữ.

–  Phong cách nghệ thuật: 

  • Điệu tâm hồn mới mẻ với  cái tôi lãng mạn bay bổng  vừa phóng khoáng vừa  ngông nghênh vừa cảm thương và ưu ái. 
  • lối đi riêng và  tìm về ngọn nguồn của  thơ ca dân gian và dân tộc vừa có những sáng tạo độc đáo tài hoa.
  • Thơ văn ông là gạch nối giữa hai thời đại văn học của dân tộc: trung đại và hiện đại.

– Tác phẩm chính: 

  • Thơ: Khối tình con I và  II
  • Truyện viễn tưởng: Giấc mộng con I và  II
  • Luận thuyết: Khối tình bản chính với  Khối tình bản phụ.
  • Thơ và văn xuôi: Còn chơi.
  • Tự truyện: Giấc mộng lớn và Thơ Tản Đà.

2. Tổng quan về tác phẩm 

– Xuất xứ và hoàn cảnh sáng tác:

  • In trong tập thơ Còn chơi và  xuất bản năm 1921.

– Thể loại: Thất ngôn với  trường thiên tự do.

– Bố cục: 

  • Phần 1 (từ đầu đến sướng lạ lùng): Giới thiệu về  chuyện.
  • Phần 2 (tiếp đến Anh gánh lên đây bán chợ trời): Thi nhân đọc thơ cho Trời và chư tiên nghe.
  • Phần 3 (còn lại): Thi nhân trò chuyện  trời.

– Giá trị nội dung: 

Qua bài thơ tác giả đã thể hiện được cái tôi cá nhân ngông ngạo và  phóng túng, tư ý thức về tài năng với  giá trị đích thực của mình và khao khát được khát vọng được khẳng định giữa cuộc đời

– Giá trị nghệ thuật: 

Bài thơ có nhiều sáng tạo hình thức nghệ thuật: thể thơ thất ngôn trường thiên khá tự do  và giọng điệu thoải mái tự nhiên, ngôn ngữ giản dị, sống động và  hóm hỉnh.

Nội dung chính trong tác phẩm

Câu 1: (trang 17 sgk ngữ văn lớp 11 tập 2)

Phân tích khổ thơ ở đầu bài thơ Hầu trời:

– Khổ thơ đầu tiên của tác giả như lời mở đầu cho câu chuyện mà tác giả đã muốn kể cùng độc giả. Thời gian đã được tác giả nhắc tới “đêm khuya” và  không gian tĩnh mịch. Trong không gian và thời gian đó thì  tác giả đã đề cập tới câu chuyện của bản thân mình  thì cũng “chẳng biết có hay không”, đó có thể là thực cũng có thể là mơ nhưng tác giả đã khẳng định mình đang ở trong một trạng thái rất bình thường “chẳng hoảng hốt với  không mơ màng”. Và tác giả đã khẳng định lại một lần nữa cho câu chuyện mà tác giả đã định kể.

“Thật hồn! Thật phách! Thật thân thể

Thật đã được lên tiên – sướng lạ lùng”

– Điệp từ “thật” đã được tác giả nhắc tới 4 lần nhằm để  khẳng định độ chân thật mà tác giả đã muốn kể. Cách mở đầu  đã tạo ra sự tò mò ở nơi người đọc và tạo cho người đọc sự hấp dần và dẫn dắt tới câu chuyện của tác giả định kể.

Câu 2: (trang 17 sgk ngữ văn lớp 11 tập 2)

Tác giả đã kể lại chuyện của mình đã đọc thơ cho trời và chư tiên nghe như sau:

– Tác giả đã đọc thơ cho trời và chư tiên nghe một cách cao hứng và có phần sau sưa. Nhà thơ đọc hết từ văn vần đã chuyển sang văn xuôi với một giọng động vừa hóm hỉnh vừa tươi vui và  lại vừa cuốn hút người đọc.

– Tiếp đó thì  trong phần cao hứng, tác giả đã kể cho trời và các trư tiên nghe những tác phẩm của mình với sự tự mãn.

“Hai quyển khối tình với văn lí thuyết.

Hai khối tình của con là văn chơi.

Thần tiên và giấc mộng văn tiểu thuyết”

– Qua đó thì  ta có thể thất Tản Đà là một nhà thơ rất “ngông” và  nhà thơ đã dám thể hiện tài năng của mình cùng Trời với  cái “Tôi” của tác giả đã  được thể hiện một cách rất  rõ nét của một nghệ sĩ  rất tài hoa và  có tâm hồn lãng mạn, không chấp nhận sự bằng phẳng với  sự đơn điệu trong văn chương nên thường tự đề cao và rấy  phóng đại cá tính của mình. Đó là niềm khao khát chân thành trong tâm hồn của  thi sĩ.

Câu 3: (trang 17 sgk ngữ văn lớp 11 tập 2)

Đoạn thơ hiện thực trong bài thơ của Hầu trời là:

“Bẩm trời với cảnh con thực nghèo khó.

Trần gian với  thước đất cũng không có

       […]

 Sức trong non yếu ngoài thì che rấp

  Một cây che chống với bốn năm chiều”

– Đoạn thơ là một cái nhìn rất chân thực về cuộc sống ở nơi trần gian của tác giả nói riêng và những thi nhân cùng thời với tác giả đã nói chung. Cuộc sống nghèo khó với nỗi lo cơm, áo, gạo, tiền,… Chính vì thế mà nhà thơ mới lên trời kể cho trời nghe về cảnh sống của mình.

– Qua đó thì ta có thể nhận thấy được Tản Đà là một nhà văn giàu tài năng và nhiều nhiệt huyết nhưng vẫn không thể thoát khỏi những nỗi lo thường nhất của cuộc sống đời thường. Nhưng dù cuộc sống của một thi nhân nghèo có nhiều khó khăn và  vất vả nhưng ông vẫn thể hiện được cái tôi của mình để  khẳng định tài năng của bản thân. Hai cảm hứng này đã đan cài khăng khít và không tách biệt trong sáng tác của nhà văn.

Câu 4: (trang 17 sgk ngữ văn lớp 11 tập 2)

Về mặt nghệ thuật của bài thơ có những cái mới và hay là:

  • Ngôn từ: Phóng khoáng và  hóm hỉnh, tươi vui với lôi cuốn người đọc không bị gò bó.
  • Thể thơ: thể thất ngôn trường thiên tự do và không bị trói buộc bởi khuôn mẫu nào.
  • Cảm xúc chủ đạo: Phóng túng và tự do đã biểu thị cái “tôi” rất đặc trưng của tác giả.

Trong con mắt của nhà thơ Trời và các bậc chư tiên thật gần gũi mà  không có một chút gì xa cách hay đạo mạo mà hiện lên cũng thật đáng yêu và  ngỗ nghĩnh như những con người dưới nhân gian.

Luyện Tập ôn luyện kiến thức

Câu 1: (trang 17 sgk ngữ văn 11 tập 2)

– Tùy vào cảm hứng của mỗi em mà có được những cảm nhận riêng về câu thơ mà mình thích nhất và viết cảm nhận về ý thơ đó. Có thể tham khảo một số câu thơ với ý tưởng sau: “Bẩm quả có tên Nguyễn Khắc Hiếu/ Đày xuống hạ giới vì tội ngông”. “Chư tiên ao ước rồi tranh nhau dặn:/ “Anh gánh lên đây bán chợ Trời” …

Câu 2: (trang 17 sgk ngữ văn 11 tập 2)

– Cái “ngông” của  tác giả là một cái mới mẻ và  một cái nhìn đầy táo bạo khác thường trong văn chương. Thể hiện một tài năng của một nghệ sĩ rất tài hoa với  cá tính không chịu trói mình trong khuôn phép văn chương đã lỗi thời và  tạo ra một cái nhìn với đầy tạo bạo.

Cái “ngông” của thi sĩ Tản đà trong bài thơ đã được biểu hiện qua:

  • Nhà thơ ý thức rất sâu sắc về tài  năng của mình: tự cho mình là văn hay đến mức trời và chư tiên cũng phải tán thưởng…
  • Xem như mình là một trích tiên bị đày xuống vì tội ngông.
  • Nhận mình là  một người nhà trời đã được sai xuống để thực hiện sứ mệnh cao cả..